Luận Văn Sự phát triển của Kế toán Việt nam

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Sự phát triển của Kế toán Việt nam

    Sự phát triển của kế toán Việt nam
    Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới nói chúng và ngành kế toán nói riêng, kế toán Việt nam cũng đã có những bước chuyển mình để mau chóng hoà nhịp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra.
    Tiếp thu nền kinh tế văn hoá Trung Hoa qua hàng nghìn nắm Bắc thuộc, hơn nữa do có vị trí thông thương đường biển, đường sông thuận lợi, nghề kế toán Việt nam có cơ hội phát triển từ rất sớm. Tuy vậy kế toán chỉ phần lớn phục vụ lợi ích cho giai cấp vua chúa, quan lại với việc thắt chặt gánh nặng địa tô, thuế má lên người dân. Mặt khác, cũng do chiến tranh diễn ra liên miên khiến cuộc sống người dân luôn bị xáo trộn, sản xuất bị ngưng trệ.
    Thế kỷ 20 đã chứng kiến cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã chia tách đất nước làm hai phần. Mãi đến thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975 lại nền độc lập thống nhất cho đất nước sau hơn một thế kỷ chia cắt. Lúc này chúng ta mới có thể thực hiện hệ thống kế toán độc lập thống nhất cả nước.
    Sau chiến tranh, Việt nam đã xây dựng hệ thống kế toán xã hội chủ nghĩa theo mô hình các nước xã hôi chủ nghĩa, mà điển hình là Liên Xô cũ, một mô hình cứng nhắc, không phù hợp với xu thế phát triển kinh tế quốc tế nói chung.
    Chúng ta đó cú những chớnh sỏch tài chớnh riờng biệt, quy định đối với cỏc doanh nghiệp Nhà nước mà khụng quy định đối với doanh nghiệp cổ phần và TNHH, cũn kế toỏn chỉ là cụng cụ để ghi chộp cỏc hoạt động tài chính theo quy định của Nhà nước, mà chủ yếu để quyết toỏn thuế, do vậy, các báo cáo tài chính được ghi chộp trờn số liệu của kế toỏn rất khỏc nhau giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc cỏc thành phần khỏc, khụng tạo ra môi trường bỡnh đẳng và sự đồng nhất, cú thể so sánh được.
    Khắc phục hạn chế này, từ những năm 1993 - 1994 Việt Nam đó bắt đầu tiếp cận với cỏc chuẩn mực quốc tế và được nghiờn cứu một cách đầy đủ từ giai đoạn năm 1996- 1998, khi thực hiện dự ỏn kế toỏn kiểm toỏn của cộng đồng chõu Âu (EURO-TAPVIET). Kể từ năm 1999, chúng ta đó bắt tay vào soạn thảo và xõy dựng chuẩn mực kế toỏn Việt Nam trên cơ sở hệ thống chế độ kiểm toỏn quốc tế. Đến thỏng 12/2001, Bộ Tài chớnh ban hành 4 chuẩn mực đầu tiờn và liờn tiếp cho đến nay, sau 4 năm, đó ban hành được 22 chuẩn mực kế toỏn.:
    Tháng 10/ 2000, Bộ Tài chính (MOF) ban hành các sắc lệnh hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực kế toán đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt nam. Các doanh nghiệp trong nước phải tuân thủ Hệ thống kế toán Việt nam (VAS). Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trừ một số trường hợp ngoại lệ cũng phải tuân thủ hệ thống kế toán này. Với dự định tiến tới việc thực hiện một hệ thống kế toán thống nhất, MOF ban hành một bức thư xác nhận vị thế của mình yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuân thủ VAS kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2001. những công ty mà đã không áp dụng VAS để bắt đầu áp dụng VAS từ 1 Tháng giêng 2001.
    Tháng 1/ 2001, Bộ Tài chính (MOF) đã thông qua chương trình xây dựng một hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt nam. Các chuẩn mực kế toán sẽ được xây dựng dựa theo các chuẩn mực kế toán quốc tế, các chuẩn mực kiểm toán cắn cứ theo Các chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Các chuẩn mực nói trên sẽ được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp và công ty kiểm toán hoạt động tại Việt nam
    Tháng 4/ 2001, với nỗ lực xúc tiến phát triển hoạt động kiểm toán ở Việt nam, Bộ Tài chính (MOF) đã thông qua 6 chuẩn mực mới về kiểm toán có hiệu lực từ 15 tháng 1 năm 2001, số 250, 310, 500, 510, 520, 580.




     
Đang tải...