Luận Văn Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức


    CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ

    I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT - MỘT TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU

    I.1. Vấn đề cơ bản của triết học

    Triết học, cũng như các ngành khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Những vấn đề này tạo thành hệ vấn đề của từng ngành khoa học. Tuy nhiên, vai trò của các vấn đề trong hệ vấn đề không giống nhau, bao giờ cũng có một hoặc một số vấn đề quan trọng nhất được coi là nền tảng để dựa vào đó giải quyết các vấn đề còn lại. Đó chính là vấn đề cơ bản của một ngành khoa học.

    Triết học nghiên cứu hàng loạt vấn đề chung, nhưng vấn đề trung tâm là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần. Trong thế giới có vô vàn hiện tượng, nhưng chung quy chúng chỉ phân thành hai loại, một là những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là những hiện tượng tinh thần (ý thức, tư duy). Do đó, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt: Mặt thứ nhất giải quyết vấn đề giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào; Mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học giải quyết vấn đề khả năng nhận thức của con người.

    I.2. Các trường phái triết học

    Việc phân định các trường phái triết học liên quan đến mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt này có ba cách:

    Cách thứ nhất: Thừa nhận vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức.

    Cách thứ hai: Cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước, cái quyết định còn vật chất là cái có sau, cái bị quyết định. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất.

    Cách thứ ba: Cho rằng vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sinh ra hay quyết định nhau.

    Trong ba cách giải quyết trên, cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy khác nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ chỉ thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể (vật chất hoặc ý thức) nên thuộc về triết học nhất nguyên. Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính thứ nhất của vật chất thuộc trường phái nhất nguyên duy vật hay chủ nghĩa duy vật. Những người khẳng định tính thứ nhất của ý thức thuộc trường phái nhất nguyên duy tâm hay chủ nghĩa duy tâm.

    Cách giải quyết thứ ba thuộc về triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nhưng về bản chất lại nghiêng về chủ nghĩa duy tâm.

    Như vậy, tuy các quan điểm triết học thể hiện rất đa dạng nhưng xét cho cùng, tất cả các quan điểm ấy được chia thành hai trường phái: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

    II. CÁC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT

    Các nấc thang phát triển của chủ nghĩa duy vật gắn liền với các thời kỳ phát triển của triết học. Trong các thời kỳ triết học khác nhau, chủ nghĩa duy vật biểu hiện thông qua các trường phái cũng khác nhau. Có nhiều cách phân chia các thời kỳ của triết học. Song căn cứ vào sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, triết học có thể được phân chia thành các thời kỳ:

    - Triết học thời cổ đại

    - Triết học thời trung đại

    - Triết học thời Phục hưng

    - Triết học cận đại

    - Triết học cổ điển Đức

    - Triết học Mác - Lênin

    Qua các thời kỳ phát triển đó của triết học, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:

    - Chủ nghĩa duy vật chất phác: Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại, mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì đã lấy giới tự nhiên để giải thích tự nhiên, không viện đến thần linh hay thượng đế khi nói về vũ trụ.

    - Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Thể hiện khá rõ từ thế kỷ XV, chủ nghĩa duy vật siêu hình đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và bất biến. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp "từ đêm trường trung cổ sang thời Phục hưng"

    - Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ănghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin phát triển. Do kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình, thể hiện là đỉnh cao nhất trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực như chính bản thân chúng tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.

    Trong bài viết có tiêu đề "Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức", tôi chỉ xin được trình bày sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật vốn vô cùng phong phú và mang nhiều sắc thái trên nhiều phương diện từ thời Cổ đại là khi chủ nghĩa duy vật ra đời cho đến triết học Cổ điển Đức là khi mà chủ nghĩa duy vật phát triển đến một tầm cao mới và tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng sau này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...