Luận Văn Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền thời kỳ 1945 - 1946

Thảo luận trong 'Lịch Sử Đảng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Luận Văn Sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền thời kỳ 1945 - 1946


    Tiểu luận dài 14 trang:

    “ Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”(1).
    Cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước ta bùng nổ khi những khả năng đàm phán hoà bình với thực dân Pháp không còn nữa, khi thực dân Pháp buộc nhân dân ta phải đứng dậy bảo vệ nền độc lập, tự do vừa mới giành được.
    Sau khi đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn(20-11-1946), gây ra hai vụ thảm sát tàn khốc đồng bào ta ở hai phố Yên Ninh, Hàng Bún( ngày 17 và 18-12-1946) .chính phủ Pháp ngày càng lao sâu vào con đường gạt bỏ mọi khả năng thương lượng để xâm lược Đông Dương bằng vũ lực. Chủ trương gây chiến ở Hà Nội một lần nữa nói lên mưu đồ chiến lược của thực dân Pháp quyết tâm cướp lại toàn bộ nước ta,sau khi đã chiếm đóng một phần phía nam tổ quốc ta. Cuối tháng 12 năm 1946, đầu tháng 1 năm 1947, bộ trưởng thuộc địa Mu-tê thay mặt chính phủ Pháp, sang Đông Dương điều tra tình hình, Mu-tê đã cự tuyệt lời đề nghị gặp gỡ và đàm phán của chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ ngày 18-12-1946, đại diện của chính phủ Pháp ở Hà Nội đã cắt đứt mọi liên hệ với đại diện chính phủ ta.
    Mưu đồ xâm lược toàn bộ nước ta, sau đó được đại biểu Pháp phát biểu công khai và trắng trợn trong cuộc hội kiến giữa đại diện Pháp với chủ tịch Hồ Chí Minh và bộ trưởng Hoàng Minh Giám ngày 11-5-1947. Trong cuộc hội kiến này, Pháp đòi quân ta phải nộp vũ khí và đặt dưới sự chỉ huy của quân đội Pháp, đòi để quân đội Pháp đi lại và đóng quân tự do khắp nơi trên đất Việt Nam. Nói tóm lại, thực dân Pháp đòi nhân dân ta phải đầu hàng.
    Thực dân Pháp đã dồn nhân dân ta đến con đường cùng, nếu không cầm vũ khí đứng dậy bảo vệ chủ quyền đất nước thì chỉ còn cách cam chịu làm nô lệ.
    “ Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do độc lập”(1).
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã được chuẩn bị chu đáo để giáng trả quân xâm lược những đòn đích đáng. Từ lâu, Đảng ta đã nhận định rằng cuộc chiến tranh xâm lược cả nước do Pháp gây ra và cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta chống Pháp xâm lược là không thể nào tránh khỏi. Xuất phát từ nhận định đó, Đảng đã có những chủ trương và biện pháp chẩn bị kháng chiến.
    Qua 16 tháng giữ vững chính quyền nhân dânvà chuẩn bị kháng chiến (9-1945 đến 12-1946), cách mạng nước ta đã lớn lên về mọi mặt . Chính quyền nhân dân đã được củng cố, bọn phản động tay sai đế quốc đủ các loại đã bị loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước. Lực lượng vũ trang nhân dân trưởng thành về cả số lượng và chất lượng. Đảng đã tổ chức được lực lượng lãnh đạo của mình ở các địa phương, trongcác đoàn thể quần chúng, trong hệ thống chính quyền, trongcác lực lượng vũ trang.
    Vì thế, nhân dân ta không những không bị bất ngờ trước cuộc tiến công xâm lược của thực dân Pháp, mà còn có thể chủ động phá âm mưu của chúng.
    Cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược tiến hành trong điều kiện nước ta vốn là một thuộc địa và nửa phong kiến, đất không rộng người không đông, với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá. Khi ấy nước ta còn bị chủ nghỉa đế quốc bao vây bốn phía. Pháp là một nước đế quốc có nền công nghiệp hiện đại, có quân đội chính quy gôm 100.000 quân viễn chinh đóng tại một số vị trí chiến lược trên đất nước ta. Chúng đủ vũ khí, phương tiện hiện đại, có cán bộ chỉ huy thành thạo, có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược thuộc địa, có nhiều thủ đoạn, âm mưu xảo quyệt và đã quen với chiến trường Việt Nam lại được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức. Vì thế, cuộc kháng chiến của nhân dân ta phải lâu dài, gian khổ.
    Nhưng cuộc kháng chiến toàn quốc của ta bắt đầu khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ của mình trên toàn quốc. Dưới chế độ mới, nhân dân ta đã được hưởng những quyền lợi chính trị, kinh tế và xã hội trước đây chưa bao giờ có. Nhân dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng chủ quyền và chế độ mới. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống xâm lược rất vẻ vang và đã có kinh nghiệm chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Lực lượng vũ trang của ta mới được xây dựng. Nhưng là những chiến sĩ xuất thân từ công nhân, nông dân và những người lao độngcó lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù giặc sâu sắc, được toàn dân ủng hộ. Lực lượng cách mạng của ta là lượng có tổ chức. Quân và dân ta chiến đấu ngay trên đất nước ta. Đảng ta tuy hoạt động bí mật nhưng vẫn nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước, có kinh nghiệm hơn 15 năm đấu tranh chống đế quốc. Đế quốc Pháp là một đế quốc già nua, bị bại trận và bị kiệt quệ sau chiến tranh, lại phải tiến hành một cuộc chién tranh ở xa nước Pháp gần 10.000 km. Mâu thuẫn giữa lực lượng tiến bộ và lực lượng phản động ở Pháp ngày càng sâu sắc; phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân Pháp và phong trào đòi độc lập của nhân dân các thuộc địa Pháp ngày càng phát triển mạnh mẽ.
    Cuộc kháng chiến của nhân dân ta lại diễn ra trong thời đại mà phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang ở trong thế tiến công chủ nghĩa đế quốc, lại gắn bó với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em đã vùng lên giành quyền độc lập và cùng có chung một kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược.
    Những điều kiện lịch sử đó là cở sở cho Đảng ta vạch ra đường lối của cuộc kháng chiến và khẳng định ngay từ đầu cuộc kháng chiến ấy tuy lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...