Luận Văn Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước

Thảo luận trong 'TT Hồ Chí Minh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh; dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại, từ thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tới chiến thắng Điện biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động đại cầu, tới chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố tất yếu trong mọi chiến thắng của dân tộc ta. Ngày nay, khi dân tộc ta đang từng bước tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước một cách toàn diện, vai trò của Đảng càng trở nên quan trọng hơn; điều đó đã được minh chứng qua những biến đổi kì diệu của đất nước ta trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước ta bước ra khỏi thời kì lạc hậu kém phát triển, đưa nước ta bước vào một thời kì phát triển mới, tiến những bước dài trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Đó chính là điều mà chúng em sẽ trình bày qua bài tiểu luận này.
    Từ giữa năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước độc lập và thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
    Tính tới năm 1986, bước chuyển biến mang tính lịch sử ấy đã diễn ra được một thập kỷ, bên canh những thành tựu to lớn cũng đã để lại rất nhiều những khó khăn cần phải giải quyết; bên cạnh đó là những biến động hết sức to lớn của lịch sử, ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam.
    Vượt qua những khó khăn của thời kì đầu mới giành được độc lập, trong thời kì này nhân dân ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn là:
    Đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, đã thiết lập được một hệ thống chế độ mới trong cả nước và đã áp dụng thành công một loạt những chính sách nhằm thúc đẩy quá trình phát triển về mọi mặt của nhà nước, tạo nên cuộc sống hòa hợp dân tộc làm cho lực lượng cách mạng nước ta lớn hơn bao giờ hết, phất huy có hiệu quả trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
    Đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biên giới Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa; đồng thời cũng làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào, góp phần tích cực bảo vệ độc lập và hòa bình trên bán đảo Đông Dương.
    Trên mặt trận kinh tế cũng như văn hóa, đã đạt được một số thành tựu, đáng chú ý là đã cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu ổn định sản xuất và đời sống.
    Tuy nhiên bên cạnh nhữn thành tựu đó, còn tồn tại rất nhiều những vấn đề to lớn, đặc biệt là các vấn đề kinh tế xã hội. Những thành tựu kinh tế mà chúng ta đạt được còn thấp so với yêu cầu đề ra, với công sức chúng ta bỏ ra, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, chưa tạo được tích lũy bên trong. Các mặt hàng tiêu dùng thường nhật, thiết yếu như lương thực, vải mặc đều thiếu. TÌnh hình cung ứng năng lượng, giao thông vận tải, vật tư cơ bản đều rất căng thẳng. Tình hình lạm phát ngày càng nghiêm trọng; hiện tượng mất cân đối trong vấn đề tiền lương, hiện tượng giá cả không ổn định mất cân đối xảy ra một cách trầm trọng. Những hiện tượng tiêu cực của xã hội còn kéo dài trên một số mặt. Tất cả nhưng tồn tại ấy đã làm lộ ra những khiếm khuyết trong mô hinh Xã hội Chủ nghĩa nghĩa rập khuôn theo Liên Xô, quan liêu bao cấp.
    Nguyên nhân khaùch quan của những khó khăn đó đã được chỉ ra trong văn kiên Đại hội lần thứ V của Đảng; đó là:
    Nền kinh tế của nước ta nhìn chung vẫn là một nền kinh tế nhỏ lẻ, kém tập trung. Lao động chủ yếu là trong ngành nông nghiệp, tuy nhiên nền nông nghiệp lại là một nền nông nghiệp lạc hậu, kém hiệu quả. Bên cạnh đó còn phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài và của sự bóc lột của thực dân, đế quốc. Thêm vào đó là thiên tai lớn dồn dập xảy ra, kẻ địch lại không ngừng phá hoại nước ta về nhiều mặt. Nền kinh tế bị đè nặng bơi những yêu cầu vừa cơ bản lại hết sức cấp bách.
    Song, nguyên nhân chính lại là những nguyên nhân chủ quan, chúng đến từ sự lãnh đạo của Đảng, bởi sự lãnh đạo của Đảng có tác động vô cùng quan trọng và có tính chất quyết định đối với thành bại của sự nghiệp cách mạng. Đảng và nhà nước đã tự kiểm điểm và nghiêm khắc tự phê bình, những sai lầm và khuyết điểm đã phạm, biểu hiện trên các mặt sau đây:
    Còn chủ quan trong việc đánh giá tình hình nước ta sau chiến tranh, thiên về những thuận lợi còn bỏ qua những khó khăn. đề ra những chủ trương, chỉ tiêu quá cao không phù hợp với tình hình thực tế. Chậm sửa đổi gỡ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mô hình kinh tế thời chiến. Chủ quan nóng vội muốn bỏ qua những bước đi mang tính thiết yếu trong quá trình phát triển Buông lỏng pháp luật, buông lỏng công cụ cuyên chính với những kẻ vi phạm pháp luật nhà nước, những kẻ phá hoại và chống đối cách mạng.
    Chính vì vậy, đổi mới trở thành một yêu cầu bức thiết đổi với Đảng và nhà nước cũng như toàn thể dân tộc ta để có thể vững bươc tiến lên trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.



    LỜI MỞ ĐẦU


    Chương I: NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (1986)
    1. Những đinh hướng đổi mới cơ cấu kinh tế
    2. Những định hướng trong việc đổi mới cơ chế quản lý
    3. Những thành tựu ban đầu


    Chương II:ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII CỦA ĐẢNG
    1. Đánh giá giai đoạn đầu tiên của chặng đường đổi mới
    2. Những bước đi tiếp theo của sự nghiệp đổi mới
    3. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1991-1995


    Chương III:TỔNG KẾT 10 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VIII CỦA ĐẢNG
    1. Tổng kết 10 năm đổi mới – định hướng cho giai đoạn tiếp theo
    2. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1996-2000


    Chương IV: TỔNG KẾT 15 NĂM ĐỔI MỚI – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG
    1. Đánh giá 15 năm đổi mới và thực hiện nghị quyết đại hội VIII
    2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
    3. Những thành tựu đã đạt được trong gia đoạn 2001-2005


    CHƯƠNG V: PHƯƠNG HƯỚNG , NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TỂ - XÃ HỘI TRONG ĐẠI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG
    1. Mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010
    1.1. Mục tiêu tổng quát
    1.2. Các nhiệm vụ chủ yếu
    1.3. Các chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu
    2. Định hướng phát triển ngàynh , lĩnh vực và vùng
    2.1. Về kinh tế
    2.2. Về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ:
    2.3. Về văn hoá, xã hội
    2.4. Tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
    2.5. Định hướng và chính sách phát triển vùng
    2.6. Về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh
    3. Các chính sách và giải pháp


    KẾT LUẬN
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
     
Đang tải...