Thạc Sĩ Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 1/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word
    MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU
    Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
    QUỐC HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LẬP PHÁP .
    1.1. Tính tất yếu của sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện
    chức năng lập pháp
    1.2. Đặc điểm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng
    lập pháp
    1.3. Yêu cầu và nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực
    hiện chức năng lập pháp
    Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUỐC HỘI TRONG VIỆC
    THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LẬP PHÁP
    2.1. Thực trạng về nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện
    chức năng lập pháp
    2.2. Thực trạng về phương thức lãnh đạo và mối quan hệ giữa Đảng với QH
    Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG NHẰM
    NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA
    QUỐC HỘI
    3.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền
    xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng .
    3.2. Phát huy vai trò lập pháp của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
    pháp quyền xã hội chủ nghĩa
    3.3. Nâng cao chất lượng đại biểu QH và tiếp tục kiện toàn các cơ quan QH .
    3.4. Bảo đảm các điều kiện cho hoạt động lập pháp của Quốc hội
    KẾT LUẬN
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    PHỤ LỤC

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Đảng lãnh đạo nhà nước là một vấn đề không mới nhưng luôn là nguyên tắc quan
    trọng trong xã hội đương đại. Nó là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhà nước và pháp
    luật đã được bàn đến từ lâu, nhưng bất cứ giai đoạn nào cũng là vấn đề mang tính thời sự,
    bởi vì nhận thức và thái độ thực hiện nguyên tắc này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
    hoạt động của nhà nước. Nói cách khác, hiện nay, một hệ thống chính trị mặc dù đa
    nguyên chính trị hay nhất nguyên chính trị, thì đảng cầm quyền (hay đảng lãnh đạo nhà
    nước) luôn là một quy luật của sự phát triển.
    Nhà nước là một thể chế bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành
    pháp và tư pháp. Tức là quyền lực nhà nước bao gồm 3 loại quyền lực cơ bản là lập pháp,
    hành pháp và tư pháp. Mỗi quyền lực này có tính độc lập tương đối của nó và có mối
    quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là một vấn đề rất lớn, trong phạm vi luận văn này, xin đề
    cập đến vấn đề "Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quốc hội trong việc
    thực hiện chức năng lập pháp", với mục tiêu đề xuất được những giải pháp phù hợp để
    phát huy những thành tựu và khắc phục hạn chế trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.
    Bởi vì, tuy những năm qua, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, nhưng bởi
    những nguyên nhân khác nhau mà hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn còn mang tính
    hình thức chứ chưa phản ánh đúng bản chất của một cơ quan quyền lực nhà nước cao
    nhất, một cơ quan đại biểu cao nhất của cả một dân tộc. Điều này làm hạn chế không
    nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung.
    Nguyên nhân trực tiếp nhất đó là sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Như vậy, vấn
    đề quan trọng và cấp thiết cần phải giải quyết đó là trong điều kiện Đảng cầm quyền thì
    làm thế nào để phát huy được vai trò của Quốc hội, bảo đảm tốt cho hoạt động lập pháp
    của Quốc hội, với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
    nhà nước cao nhất trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
    Sự lãnh đạo của Đảng, theo đó, bảo đảm cho Quốc hội và các đại biểu Quốc hội
    một mặt thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng lãnh đạo, mặt khác thực hiện được nhiệm
    vụ, yêu cầu đại biểu của nhân dân, người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà
    nước trong Quốc hội.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    Liên quan đến đề tài này có những công trình nghiên cứu, bài viết như:
    - "Đảng trong hệ thống chính trị của xã hội XHCN", Nxb APN, Matxcơva - 1987
    - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị", Nxb Sự thật, Hà Nội - 1991.
    - "Về phương thức lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Xây dựng Đảng số chuyên đề 12-
    1995.
    - "Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo Nhà nước" của Học viện
    Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1996.
    - "Nhận thức về nguyên tắc tập quyền và vài khía cạnh trong vấn đề về quan hệ
    giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay". (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
    tháng 2/1997).
    - "Bộ máy Nhà nước ta - 54 năm xây dựng, trưởng thành, đổi mới", (Tạp chí Cộng
    sản số 17, tháng 9/1999).
    - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới" của Phân viện Đà Nẵng,
    Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Đà Nẵng - 2000
    - "Quyền hành pháp và các chức năng của quyền hành pháp" (Tạp chí Luật học số
    6-2000).
    - "Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước Cộng
    hoà XHCN Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội- 2001.
    - "Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước" của Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội-
    2001.
    - "Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước" của Nguyễn Phú
    Trọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002.
    - "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước" của Lê
    Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 19, 7/2003).
    - "Bản chất của Đảng cầm quyền" của Hoàng Chi Bảo (Tạp chí Cộng sản số 3,
    tháng 3-2004).
    - "Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung
    Quốc", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2004.
    - "Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tư pháp"
    của Trần Đại Hưng (Tạp chí Cộng sản số 21, tháng 11/2004).
    - "Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam" do
    Đinh Xuân Lý chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2005.
    - "Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" do Đặng Đình
    Tân chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2005.
    - "Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành chính Nhà nước Việt Nam trong sạch, dân
    chủ và hiện đại" của Nguyễn Khánh (Tạp chí Cộng sản số 20, tháng 10/2006).
    - "Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu
    phát triển đất nước" của Trương Tấn Sang (Tạp chí Cộng sản số 24, tháng 12/2006).
    - "Nhận thức các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của
    Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN" của Trần Thái Dương (Tạp chí Nhà nước
    và Pháp luật số 1/2006).
    - “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền”, Nguyễn Đăng Dung chủ biên,
    Nxb đại học quốc gia Hà Nội – 2007.
    - "Khái niệm văn hoá Pháp luật và quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin về văn
    hoá Pháp luật" của Nguyễn Văn Mạnh (Thông tin Nhà nước và Pháp luật số 1/2008).
    - "Lý luận thực hiện Pháp luật trong thời kỳ mới" của Lê Văn Hoè (Thông tin Nhà
    nước và Pháp luật số 4/2008).
    Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được rất nhiều vấn đề lý luận và
    thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước dưới những góc độ khác nhau như:
    Chính trị học, Triết học, Xã hội học, Luật học . nhưng trong những công trình đó, các
    nhà khoa học thường đề cập đến việc Đảng lãnh đạo cả bộ máy Nhà nước nói chung. Còn
    việc đi sâu vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp thì
    còn mờ nhạt, hoặc nếu đề cập đến hoạt động của Quốc hội thì chỉ chú ý nhiều đến việc
    thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội mà ít đi sâu phân tích nguyên tắc Đảng
    lãnh đạo. Luận văn này cố gắng sử dụng những giá trị đã có từ các công trình trên để tô
    đậm thêm điều còn mờ nhạt, nhưng rất cần thiết trong tình hình hiện nay.
    3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
    Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung và thực tiễn của
    vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp.
    4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
    4.1. Mục đích của luận văn
    Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định tính tất yếu của nguyên tắc
    Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Quốc hội, vạch rõ mối quan hệ biện chứng giữa quyền
    lực nhân dân (quyền lực xã hội), quyền lực chính trị (quyền lực của Đảng) và công quyền
    (quyền lực Nhà nước); đề xuất những giải pháp phù hợp để phát huy những thành tựu và
    khắc phục những hạn chế trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.
    4.2. Nhiệm vụ của luận văn
    - Hệ thống hoá và trình bày rõ ràng những khái niệm, những luận điểm về quyền
    lực nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, về Đảng lãnh đạo. Từ đó làm sáng
    tỏ tính tất yếu khách quan của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội.
    - Đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, thực trạng về tổ
    chức và hoạt động của Quốc hội, phân tích làm rõ những ưu điểm cũng như hạn chế, tồn
    tại, đề xuất giải pháp bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả
    hoạt động lập pháp của Quốc hội.
    5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
    5.1. Cơ sở lý luận
    Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
    Minh về nhà nước và pháp luật; theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng về tổ và hoạt
    động của Quốc hội, gắn với thực tiễn vận động phát triển của nhà nước và pháp luật với
    tư cách là những hiện tượng xã hội tồn tại một cách độc lập tương đối.
    5.2. Phương pháp nghiên cứu
    Phương pháp nghiên cứu chung của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng
    của triết học Mác-Lênin với quan điểm phát triển, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể.
    Phương pháp đó được thực hiện trên góc độ là khoa học pháp lý với những nguyên tắc
    riêng của nó. Những phương pháp cụ thể khác được sử dụng trong luận văn như: Lôgic
    và Lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và chứng minh .
    6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
    - Hệ thống hoá một số khái niệm, luận điểm về nhà nước và pháp luật nhằm vào
    mục đích cụ thể, đó là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc
    Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp trước tình hình mới.
    Việc hệ thống hoá những khái niệm, luận điểm về vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội thì đã
    được nhiều công trình khoa học thực hiện, nhưng hệ thống hoá để nhằm vào mục đích
    làm rõ mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp thì
    hầu như còn mờ nhạt. Tức là điểm mới của luận văn là ở phạm vi mục đích của nó.
    - Đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề Đảng lãnh đạo Quốc hội trong
    việc thực hiện chức năng lập pháp trên góc độ khoa học Pháp lý. Phần nhiều các công
    trình khoa học trước đây đánh giá việc thực hiện nguyên tắc này trên những góc độ khác
    (tuy rằng có liên quan chặt chẽ với khoa học Pháp lý) như: Triết học, khoa học Xây dựng
    Đảng, Chính trị học .Còn trên góc độ khoa học Pháp lý, vấn đề này thường được xem là
    một bộ phận của công trình nghiên cứu.
    7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
    - Bằng cơ sở lý luận và thực tiễn của khoa học Pháp lý, luận văn góp phần khẳng
    định tính tất yếu khách quan của nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quốc hội trong quá trình xây
    dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm phong phú thêm
    những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là về hoạt động lập pháp
    của Quốc hội. Do đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ, chính quyền,
    các đại biểu Quốc hội nghiên cứu tham khảo trong quá trình thực thi nhiệm vụ để góp
    phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
    quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân trong bộ
    máy nhà nước. Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ giáo viên nghiên
    cứu tham khảo vận dụng vào công tác giảng dạy pháp luật.
    8. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
    chương, 9 tiết.

    Chương 1
    CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
    ĐỐI VỚI QUỐC HỘI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LẬP PHÁP

    1.1. Tính tất yếu của sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực
    hiện chức năng lập pháp
    1.1.1. Đảng lãnh đạo Nhà nước - quy luật của sự phát triển
    1.1.1.1. Quyền lực chính trị - lực lượng lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội.
    Xã hội loài người phát triển theo quy luật tương tác giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
    thượng tầng. Các-Mác xem đó là ”quá trình lịch sử-tự nhiên” của ”hình thái kinh tế-xã hội”.
    Cơ sở hạ tầng là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
    nhất định. Cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, đều bao gồm quan hệ
    sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của
    xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo trong
    việc chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế-xã hội.
    Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được dặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị
    trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có
    vai trò nhất định.
    Như vậy, xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành hạ
    tầng cơ sở kinh tế của xã hội, trên đó hình thành nên thượng tầng kiến trúc xã hội tương ứng.
    Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức,
    tôn giáo, nghệ thuật . cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như đảng phái, nhà nước, hệ
    thống giáo dục, giáo hội, đoàn thể xã hội . được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi
    yếu tố trong kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng chúng
    liên hệ với nhau, tác động qua lại với nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên cơ
    sở hạ tầng. Cho nên chúng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng.
    Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế-xã hội,
    Chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng
    quyết định kiến trúc thượng tầng, song, kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại
    cơ sở hạ tầng.
    Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng ở chỗ mỗi cơ sở hạ
    tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng phù hợp với nó. Tinh chất của cơ sở hạ tầng
    quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Ví dụ, cơ sở hạ tầng của một xã hội mà quan
    hệ sản xuất chủ đạo dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì các yếu tố chinh trị,
    pháp luật, tôn giáo . xem quyền tư hữu là thiêng liêng bất khả xâm phạm (như trong các nước
    tư bản chủ nghĩa).
    Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ khi
    cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ
    diễn ra khi thay đổi hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác mà còn diễn
    ra trong quá trình biến đổi của mỗi một hình thái kinh tế- xã hội.
    Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiên ở chỗ kiến
    trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động đến
    sự vận động phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng. Nếu
    tác động phù hợp với quy luât kinh tế khách quan thì nó là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cơ sở
    hạ tầng kinh tế phát triển, nếu tác động ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của hạ tầng cơ sở,
    kìm hãm tiến bộ xã hội.
    Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có vai trò và cách thức tác động khác nhau đến cơ
    sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, yếu tố nhà nước và pháp luật có tác động mạnh nhất đối
    với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng vì nó là bộ máy quyền lực tập trung của giai cấp thống trị về
    kinh tế. Các yếu tố khác như đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật . cũng tác động, tuy không trực tiếp
    nhưng nó ảnh hưởng lâu dài và nó bị chi phối bởi nhà nước và pháp luật.
    Nhưng nhà nước bao giờ cũng là của một giai cấp (hay một liên minh giai cấp) nhất
    định giữ địa vị thống trị trong quan hệ kinh tế mà biểu hiện của nó là nhà nước bao giờ cũng
    do một đảng chính trị (hay một liên minh) lãnh đạo; pháp luật bao giờ cũng là ý chí, đường lối
    của đảng chính trị được thể chế hóa thành những quy phạm được bảo đảm thực hiện bởi nhà
    nước. Như vậy, trong phạm vi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính trị là yếu tố quyết
    định. Nói cách khác, quyền lực chính trị là lực lượng lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội.
    Cho nên, sẽ là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn khi cho rằng có thể phi chính trị hóa nhà
    nước hoặc không thừa nhận rằng nhà nước phải do một lực lượng chinh trị lãnh đạo.

    Lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước ở các quốc gia khác nhau có thể có cấu trúc khác
    nhau, tùy thuộc vào cấu trúc cơ sở hạ tầng của quốc gia đó, tức là nó tùy thuộc vào các quan hệ
    kinh tế tồn tại ở quốc gia đó. Nó có thể là một đảng chinh trị hay một liên minh nhiều đảng
    chính trị, điều đó do cơ sở hạ tầng quyết đinh (chứ không phải do ý chí của con người quyết
    định). Sự tồn tại một đảng hay đa đảng trong lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước là sự phản
    ánh tương quan lực lượng của các nhóm lợi ích kinh tế khác nhau.
    Ở Mỹ, các nhà chính trị học thường nhấn mạnh rằng: ”trong một xã hội dân chủ thì một
    Chính phủ không thể không gắn với đảng chính trị. Đảng phái chính trị là trung tâm sự hiện
    hữu của chính quyền, đóng vai trò tuyệt đối” [52, tr. 65]Nhiều năm nay tồn tại hai đảng lớn
    nắm quyền lực chính trị, lãnh đạo Nhà nước và chỉ có những người của hai đảng này nắm giữ
    những vị trí quan trọng, quyết định trong bộ máy nhà nước. Thực chất hai đảng này chỉ là một
    liên minh của hai nhóm lợi ích. Một là lực lượng giai cấp tư sản có nguồn gốc là những tập
    đoàn tư bản tài chính công nghiệp miền Bắc nước Mỹ (Đảng Cộng hoà) thành lập năm 1851;
    hai là lực lượng giai cấp tư sản có nguồn gốc là những nhà tư sản nông nghiệp miền Nam
    (Đảng Dân chủ) thành lập năm 1791. Cơ sở hạ tầng làm nảy sinh chế độ lưỡng đảng ở Mỹ
    chính là sự phân hóa trong nền kinh tế Mỹ thành hai nhóm lợi ích đó. Do tương quan lực
    lượng, sự cạnh tranh quyền lực giữa hai đảng này đã dẫn đến sự thoả hiệp trong việc nắm giữ
    quyền lực chính trị. Đa-vít-Cô-lơ, một học giả tư sản nhận định: ”Hai đảng rất giống nhau ở
    nhiều điểm đến nỗi đôi khi hai đảng được gọi là anh em sinh đôi. Cứ hai năm một lần, hai
    đảng lại thoả thuận và so tài một trận, mà trong đó cả hai đều được vừa đủ để tránh thiệt hại
    cho phe thua” [7, tr.227].
    Ở Nhật Bản, tồn tại chế độ Phong kiến từ lâu đời. Mặc dù theo truyền thuyết, Vua Nhật
    Bản là hiện thân của thần thánh, nhưng hiện nay, quyền lực của Vua chỉ mang tính hình thức.
    Quyền lực chính trị thực sự nằm trong tay Đảng Dân chủ Tự do. Mặc dù Nhật Bản có nhiều
    đảng phái (như: Đảng Xã hội Nhật Bản, Đảng Công nhân Nhật Bản, Đảng Komeito), nhưng từ
    khi thành lập vào năm 1955 bằng cách hợp nhất Đảng Tự do và Đảng Dân chủ, Đảng Dân chủ
    Tự do Nhật Bản đã nắm quyền lãnh đạo nhà nước cho đến ngày nay (trừ giai đoạn 1993 –
    1997, đảng này để mất quyền lãnh đạo nhà nước do giới lãnh đạo của Đảng dính vào các vụ bê
    bối tài chính). Hiện nay, khi nói tới sự lãnh đạo của đảng chính trị đối với bộ máy nhà nước
    Nhật Bản được người ta hiểu là nói đến sự lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do. Nhân tố quan
    trọng nhất thúc đẩy sự vận động phát triển quyền lực chính trị ở Nhật Bản không phải là sự
    cạnh tranh giữa các đảng phái, mà là sự tương tác giữa các phe nhóm lợi ích trong nội bộ Đảng
    Dân chủ Tự do, nó được phản ánh thành các phe nhóm trong Quốc hội. Sự tương quan và cân
    bằng quyền lực giữa các phe nhóm lợi ích làm cho hoạt động của Quốc hội nước này luôn có
    sự thay đổi năng động. Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong các nhà nước Nghị viện
    phương Tây.
    Ở Liên bang Nga, sau khi Liên Xô tan rã năm 1990, xuất hiện rất nhiều đảng phái đấu
    tranh để giành quyền lãnh đạo Nhà nước Nga. Về mặt pháp lý, pháp luật ghi nhận cho phép
    các đảng phái tham gia hoạt động giành quyền lực nhà nước bằng con đường tranh cử. Tuy
    nhiên sau 10 năm đấu tranh, quyền lãnh đạo nhà nước đã được khẳng định một cách rõ ràng
    thuộc về ”Đảng Nước Nga thống nhất” khi đảng này được thành lập vào tháng 1/2001 trên cơ
    sở hợp nhất các tổ chức ”Thống nhất”, ”Tổ quốc”, ”Toàn Nga”, các tổ chức đó là các đảng
    chinh trị đại diện cho các nhóm lợi ích mà cơ sở hạ tầng hình thành nên chúng là sự phân hóa
    trong nền kinh tế Nga sau khi Liên xô tan rã, hình thành nhiều nhóm kinh tế có lợi ích đối
    trọng nhau. Hiện nay, đảng này nắm quyền lực chính trị giữ vai trò quyết định trong tổ chức
    và hoạt động của Nhà nước Nga.
    Xin-ga-po là một trung tâm giao lưu kinh tế của nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới
    nên hình thành rất nhiều nhóm lợi ích, hiện nay có đến 22 đảng phái hoạt động đại diện cho
    các nhóm lợi ích đó, nhưng duy nhất chỉ có Đảng Nhân dân hành động (PAP) cầm quyền suốt
    từ 1959 đến nay, bởi vì đảng này là đại biểu của quan hệ kinh tế chủ đạo ở Xin-ga-po, các
    đảng phái khác hầu như không có vai trò đáng kể trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp Xin-ga-
    po quy định đảng nào chiếm đa số ghế trong Quốc hội sẽ có quyền thành lập Chính phủ.
    Người đứng đầu của đảng sẽ được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chính phủ và có quyền thành lập
    nội các của mình. Hiện nay, Tổng Bí thư của Đảng là người trực tiếp điều hành cơ quan của
    Đảng và có vai trò quyết định trong Đảng, đồng thời làm Thủ tướng Chính phủ điều hành cơ
    quan hành pháp, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đảng đề ra.
    Như vậy, một nền chính trị đa nguyên, đa đảng không phải là một sáng kiến của ai đó
    buộc các quốc gia phải làm theo. Nó chẳng qua là sự phản ánh một đặc điểm tồn tại khách
    quan trong cơ sở hạ tầng của quốc gia đó. Khi cơ sở hạ tầng xuất hiện sự đa dạng của các quan
    hệ kinh tế thì tất yếu nó sẽ làm chuyển đổi nền chinh trị. Sự chuyển đổi này khi đạt đến độ nhất
    định là tồn tại các nhóm lợi ích khác nhau có thể cân bằng lực lượng thì cho dù nhà nước ở đó
    có muốn ”độc đảng” cũng không thể được. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng bao giờ cũng tồn tại
    một quan hệ kinh tế chủ đạo, chi phối các quan hệ kinh tế khác, nên nền chinh trị bao giờ cũng
    có một đảng (hoặc một liên minh) mạnh nhất cầm quyền.
    Ở Việt Nam, xét từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, cơ sở hạ
    tầng là một nền kinh tế dựa trên hai lĩnh vực chủ đạo là nông nghiệp và công nghiệp, nhưng nó
    mang tính dân tộc sâu sắc vì nó luôn phải đấu tranh chống lại sự chèn ép, đô hộ của nền kinh tế
    phương tây. Thực tiễn ra đời và suốt chiều dài lịch sử phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam,
    Đảng luôn là một liên minh đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
    nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, các nhóm lợi ích của cả dân tộc
    Việt Nam luôn được liên kết thống nhất trong một Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự tồn tại
    của Đảng với tư cách là một đảng duy nhât lãnh đạo Nhà nước là sự phản ánh đúng đặc điểm
    của hạ tầng cơ sở kinh tế Việt Nam.
    1.1.1.2. Quyền lực nhà nước - phương tiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của
    đảng đối với nhà nước và xã hội
    Lãnh đạo là điều khiển người khác hành động theo một định hướng nhất đinh. Nói
    cách khác, lãnh đạo là thực hiện đường lối, ý chí của mình thông qua người khác. Một
    trong những đặc trưng của hoạt động lãnh đạo là tính không trực tiếp thưc hiện công việc
    mà thực hiện thông qua những phương tiện, công cụ nhất định. Người lãnh đạo chỉ thực
    hiện các chức năng tổ chức, tuyên truyền, giáo dục và kiểm tra, xử lý để giữ vững đường
    lối, định hướng của mình. Một đảng chính trị muốn lãnh đạo xã hội cũng phải thông qua
    công cụ, đó là nhà nước. Cho nên, nói đến quyền lực chính trị bao giờ cũng gắn với
    quyền lực nhà nước, nhưng quyền lực chính trị không thay thế quyền lực nhà nước.
    Đứng ở góc độ khác nhau người ta có quan niệm khác nhau về nhà nước. Những
    quan niệm đó có thể nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của nhà nước. Việc nhấn mạnh
    mặt này hay mặt khác của nhà nước đều có nguyên nhân và ý nghĩa thực tế của nó.
    Cho dù tiếp cận nhà nước ở góc độ nào thì chúng ta cũng thấy rằng nhà nước là một
    thiết chế xã hội có chức năng thực hiện quyền lực công cộng. Cho dù nhà nước do giai
    cấp nào lãnh đạo, cho dù trong trong một chính thể nào, thì chức năng thực hiện quyền
    lực công cộng vẫn là thuộc tính đặc trưng của nhà nước.
    Quyền lực công cộng (hay quyền lực nhà nước) được thể hiện ở chổ nhà nước ban
    hành pháp luật và có những thiết chế bảo đảm thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng
    chế của các cơ quan chức năng như toà án, cảnh sát, quân đội .
    Đặc trưng của quyền lực nhà nước là bằng vào pháp luật mà thực hiện ý chí của nhà
    nước. Nếu một chủ thể thực hiện ý chí của mình bằng sức mạnh cưỡng chế mà không có
    pháp luật thì đó không phải là quyền lực nhà nước. Mặt khác, chỉ có nhà nước mới có
    quyền ban hành pháp luật.
    Vì pháp luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành
    hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp cầm quyền và
    được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế, cho nên, giữa quyền lực
    nhà nước và quyền lực chính trị có những đặc điểm giống nhau, khác nhau và quan hệ rất
    chặt chẽ với nhau.
    Về điểm giống nhau, quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị đều là quyền lực và
    cùng hướng tới mục đích giống nhau, đó là điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của
    giai cấp cầm quyền.
    Về điểm khác nhau và mối liên hệ giữa hai loại quyền lực này, chúng ta thấy rằng
    hai loại quyền lực này luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Quyền lực
    nhà nước chỉ có thể thực hiện được khi thông qua pháp luật, pháp luật thì chỉ hướng đến
    chân lý, chân lý khách quan là mục đích cao nhất mà pháp luật hướng tới. Chính vì vậy
    mà pháp luật tạo nên sức mạnh của quyền lực công cộng. Nhưng cũng chính vì thế mà
    quyền lực công cộng có những hạn chế của nó. Trước toà án, nếu không ai chứng minh
    được những chứng cứ buộc tội kia là giả dối, thì cho dù thẩm phán biết rõ bị cáo kia vô
    tội cũng buộc phải tuyên bị cáo là có tội theo những chứng cứ kia. Chính trong những
    tình huống đó là lúc mà quyền lực chính trị có thể cứu nguy cho cả thẩm phán và bị cáo.
    Vì sao thẩm phán làm đúng pháp luật mà đôi khi lại không mang lại công lý cho
    người dân? Triết học Mác-xít đã lý giải điều này rất chính xác. Luận điểm về tính tuyệt
    đối và tính tương đối của chân lý chỉ ra rằng: chân lý là tuyệt đối đúng chỉ trong một điều
    kiện thực tiễn nhất định và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bởi vì thực tiễn là thước đo duy nhất
    đúng đắn của chân lý, mà thực tiễn cũng luôn luôn vận động biến đổi. Đặt chân lý đó
    trong điều kiện thực tiễn khác và hoàn cảnh lịch sử khác thì có thể không còn đúng nữa.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Nguyễn Văn An (2006), “Để xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước cao
    nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, (số 1, tháng
    1/2006).

    Lê Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (2003), “Tiếp tục đổi mới phương thức
    lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản (số 19, tháng
    7/2003).

    Bộ Chính trị khoá IX (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về
    Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
    2010, định hướng đến năm 2020.

    Lê Duẩn (1981), Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

    Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền,
    Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

    Trần Thái Dương (2006), “Nhận thức các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
    Nam về vị trí, vai trò của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN", Tạp
    chí Nhà nước và Pháp luật (số 1/2006), tr. 17 – 26.

    Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế
    giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội .

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
    hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
    hành Trng ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
    hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
    Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
    IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb
    Chính trị quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
    hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
    Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Đảng đoàn Quốc hội (2009), Đề án tổng kết chuyên đề vấn đề xây dựng Nhà
    nước pháp quyền, phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực trong xây dựng
    Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

    Đảng Cộng sản Việt Nam, “Cương lĩnh xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời
    kỳ quá độ”, Văn kiện đảng toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
    nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
    hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
    ương lần thứ ba khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

    Nguyễn Thúy Hoàn (2006), “Đảng cầm quyền ở Xin-ga-po, Tạp chí Xây
    dựng Đảng (8), tr.59.

    Lê Văn Hoè (2008), "Lý luận thực hiện Pháp luật trong thời kỳ mới", Thông
    tin Nhà nước và Pháp luật, (số 4/2008).
    Nguyễn Văn Huyên (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (mô hình tổ
    chức và hoạt động), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

    Trần Đình Huỳnh (2001), Phương thức Đảnglãnh đạo Nhà nước, Nxb Hà Nội.

    Nguyễn Khánh (2006) “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
    với Nhà nước” Báo Nhân dân (18620), tr.3.

    Khoa Luật, Viện Đại học mở Hà Nội (2005), Tài liệu tham khảo môn Luật
    Hiến pháp, Nxb Tư pháp.

    Nguyễn Thế Kiệt (2005), “Mấy vấn đề về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
    hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam hiện nay”, Tìm hiểu vai
    trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị
    quốc gia, Hà Nội.

    V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

    Nguyễn Văn Mạnh (2008), “Khái niệm văn hoá Pháp luật và quan điểm của
    Chủ nghĩa Mác-Lê nin về văn hoá Pháp luật", Thông tin Nhà nước và Pháp
    luật, (số 1/2008).

    Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà
    Nội.

    Đỗ Mười (1992), Xây dựng Nhà nước của nhân dân - Thành tựu – Kinh nghiệm -
    Đổi mới, Nxb Sự thật.

    Lê Hữu Nghĩa (1993), “Đảng cầm quyền - Bản chất và những vấn đề đặt ra”,
    Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Hội.

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức
    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết số
    51/2001/QH 10 về việc sửa đổi, bổ sung một số đều của Hiến pháp nước Cộng hoà
    xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Hiến pháp nước Cộng
    hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
    Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức Quốc
    hội (số 30/2001/QH 10).

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật sửa đổi, bổ sung
    một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội ( số 31/200/QH 10).

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật bầu cử đại biểu
    Quốc hội năm 1997.

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật tổ chức Hội
    đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (số 11/2003/QH 11).

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật bầu cử đại biểu
    Hội đồng nhân dân (số 12/2003/QH 11).

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật tổ chức Toà án
    nhân dân (số 33/2002/QH 10).

    Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật tổ chức Viện
    kiểm sát nhân dân (số 34/2002/QH 10).

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Hiến pháp năm 1946

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1959), Hiến pháp năm 1959.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...