Tiểu Luận Sử dụng bản đồ tư duy - dạy học sinh cách tự học trong môn ngữ văn thcs.

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đặc trưng bộ môn Ngữ văn và các môn khoa học xã hội khác khi học tập học sinh thường rất ngại vì dung lượng kiến thức cần ghi nhớ nhiều, chủ yếu là kênh chữ. Nên khi ghi nhớ kiến thức hoặc tiếp xúc với các đơn vị kiến thức mới học sinh rất lúng túng. Từ đó nảy sinh sự chán nản, kém hứng thú đối với môn học.
    Đổi mới Giáo dục phổ thông yêu cầu người thầy giáo chỉ là người tổ chức, hướng dẫn còn học sinh là trung tâm, chủ động, tự tin chiếm lĩnh kiến thức. Vậy nên phương pháp dạy học mà người thầy cung cấp cho học trò là phương pháp tự học. Dạy học sinh tự học trong ngữ văn là dạy học sinh cách thức, phương pháp chiếm lĩnh tác phẩm, đơn vị kiến thức về phương tiện rèn luyện kỹ năng. Để thực hiện mục tiêu dạy cách học cho học sinh, người thầy có thể đa dạng hóa các hình thức, kỹ thuật dạy học, sáng tạo và linh hoạt trong quá trình lên lớp. Một trong các phương pháp đó người thầy giáo có thể sử dụng bản đồ tư duy để dạy học sinh cách tự học.
    Bản đồ tư duy là một phương pháp lưu trữ, sắp xếp thông tin và xác định thông tin theo thứ tự ưu tiên (thường là trên giấy) bằng cách sử dụng từ khóa và hình ảnh chủ đạo. Bản đồ tư duy thể hiện ra bên ngoài cách thức mà bộ não chúng ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Kĩ thuật tạo ra bản đồ tư duy được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Quá trình hình thành trí nhớ trong não người là sự hình thành các đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa các vùng chức năng (các trung khu thần kinh) của vỏ não. Càng hình thành được nhiều đường liên hệ và mối liên hệ càng thường xuyên thì trí nhớ càng bền vững. Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh trong bản đồ tư duy sẽ đem lại một công dụng rất lớn vì đã huy động cả bán cầu não trái và phải cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ tăng cường sự liên kết giữa hai bán cầu não, và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não. Bản đồ tư duy là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào não, rồi đưa thông tin ra ngoài não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó.
    Thực tế học sinh học ngữ văn, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng các kiến thức đã học trước đó vào bài sau. Phần lớn học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Trong thực tiễn bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
    Ngoài ra do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. Bởi khi học sinh muốn xây dựng một bản đồ tư duy thì các em phải sử dụng hết tất cả các kỹ năng quan sát, kỹ năng đọc, phân tích tài liệu, đặc biệt là kỹ năng tư duy (gồm các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa) và cuối cùng là kỹ năng vẽ. Trong khi vẽ bản đồ tư duy để thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, các em còn tưởng tượng, sáng tạo ra các cách thể hiện khác nhau, cách phối hợp màu sắc để nhấn mạnh các kiến thức quan trọng. Từ đó khi nhìn vào bản đồ tư duy sẽ có ấn tượng mạnh, trí não sẽ nhanh nhớ hơn mà không cần phải học thuộc nhiều lần.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...