Chuyên Đề Sự định dưới giá và kết quả dài hạn của IPOs ở Trung Quốc

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    1. Tóm tắt . 3
    2. Giới thiệu 4
    3. Đặc điểm của thị trường IPO Trung Quốc . 8
    4. Dữ liệu và những thống kê tóm tắt 11
    5. Định lượng sự định dưới giá IPO . 16
    6. Kết quả trong dài hạn
    5.1 Kết quả dài hạn của giá cổ phiếu .17
    5.2 Tỷ lệ giá/thu nhập và tỷ lệ giá sổ sách/giá thị trường trước và sau IPO. 25
    7. Kết quả hoạt động của các công ty IPO xung quanh năm phát hành.
    7.1 Kết quả hoạt động 27
    7.2 Mối quan hệ giữa kết quả hoạt động và giá cổ phiếu. . 29
    8.Kết luận 30
    1. Tóm tắt
    o Lý do chọn đề tài
    Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa,Chính phủ triển khai nhiều chủ trương,
    chính sách về việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và đổi mới hình thức sở
    hữu tư nhân.Điều này tạo ra một làn sóng mới ồ ạt phát hành cổ phiếu ra công
    chúng.Tuy nhiên thời gian gần đây nhà đầu tư rất dè dặt trong việc mua cổ phiếu IPO
    do việc nắm giữ những cổ phiếu này đem lại tỷ suất sinh lợi cho nhà đầu tư.Để phân
    tích rõ những nguyên nhân gây ra tỷ suất sinh lợi âm, chúng tôi tìm hiểu sự định dưới
    giá và kết quả dài hạn của cổ phiếu IPO trên thị trường chứng khoán Trung Quốc, để
    từ đó liên hệ với Việt Nam vì thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, không thể
    giải thích rõ điều này
    o Mục tiêu nghiên cứu
    Nghiên cứu sự định dưới giá và kết quả dài hạn ở thị trường chứng khoán Trung Quốc
    làm nền tảng khảo sát thực trạng sự định dưới giá IPOs ở Việt Nam.
    o Phương pháp nghiên cứu
    Đầu tiên, đề tài tham khảo các giáo trình của các giảng viên để nắm kĩ các vấn đề liên
    quan đến IPO. Sau đó thông qua bài nghiên cứu khoa học của Kalok Chan,Junbo
    Wang,K.C.John Wei để hiểu về xu hướng định giá IPO của Trung Quốc cũng như thế
    giới, từ đó có thể giải thích cho sự định giá IPO ở thị trường chứng khoán Việt Nam
    trong những năm gần đây
    Thông qua nghiên cứu các chỉ số P/E,B/M và một số chỉ số tài chính khác để thấy rõ
    mối quan hệ của sự định dưới giá và kết quả dài hạn của những cổ phiếu này
    o Nội dung nghiên cứu
    Thị trường chứng khoán Trung Quốc bắt đầu được thành lập vào đầu thập niên 90 với
    hai sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến. Với đặc điểm của một nền
    kinh tế truyền thống kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa, thị trường chứng khoán Trung
    Quốc cũng như quá trình IPO tại Trung Quốc luôn được giám sát, quản lý chặt chẽ bởi
    Chính phủ. Số lượng chứng khoán Chính phủ nắm giữ rất lớn đã gây ra nhiều hạn chế
    như sự đầu cơ vào ngày giao dịch đầu tiên hay sự quản lý quan liêu, không hiệu quả.
    Sự định dưới giá được tính toán như một tỷ suất sinh lợi vào ngày giao dịch đầu tiên
    tại Trung Quốc đối với cổ phiếu loại A và B trong giai đoạn 1993 đến 1995 lần lượt là
    177,8% và 11,6%. Sự định dưới giá rất cao của cổ phiếu loại A cỏ thể được giải thích
    bởi mối tương quan thuận giữa định dưới giá và số ngày từ khi cung ứng đến khi niêm
    yết, số lượng các nhà đầu tư trong khu vực diễn ra IPO; mối tương quan nghịch với số
    lượng cổ phiếu đang lưu hành, tỷ lệ cổ phiếu không giao dịch được nắm giữ bởi Nhà
    nước và các cơ quan luật pháp.
    Những đặc điểm này không thể giải thích sự định dưới giá của cổ phiếu loại B bởi số
    lượng cố phiếu B quá nhỏ và chưa có một cơ sơ hệ thống nào để giải thích.
    Tuy nhiên, trong dài hạn, vào khoảng thời gian từ 1 đến 3 năm, cổ phiếu loại A khi
    IPOs hơi kém hiệu quả so với các cổ phiếu tương tự không IPO với mức lợi tức tương
    đối dao động từ 0,9 đến 0,95. Ngược lại, cổ phiếu loại B lại tốt hơn so với các cổ
    phiếu tương tự không IPO với mức lợi tức tương đối dao động từ 1,28 đến 1,36.
    Tiếp tục tác giả tìm hiểu sự thay đổi trong hoạt động của các công ty IPO sau năm
    phát hành và nhận thấy ROA, CFOA và ATO suy giảm đáng kể sau khi phát hành,
    trong khi đó tốc độ tăng trưởng doanh thu và tốc độ tăng chi phí vốn của các công ty
    IPO tăng đáng kể so với ngành. Vì vậy , hiệu suất hoạt động kém hơn trong ROA,
    CFOA, và ATO không liên quan đến một sự suy giảm trong hoạt động kinh doanh.
    Sử dụng phương pháp hồi quy TSSL cổ phiếu A sau IPO dựa trên kết quả hoạt động,
    tác giả nhận thấy TSSL là tương quan thuận với sự thay đổi TSSL trên tổng tài sản, và
    sự thay đổi vốn lưu động trên tổng tài sản, và những thay đổi trong tỷ lệ tăng trưởng
    doanh thu. Điều này cho thấy rằng trong dài hạn, giá cổ phiếu không hoàn toàn ảnh
    hưởng bởi đầu cơ, nhưng nó phản ánh kết quả hoạt động của một công ty.
    Như chúng ta đã biết,thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua những
    giai đoạn thăng trầm: trầm lắng trước khi có những cuộc bùng nổ về các đợt phát
    hành IPO vào năm 2007 và rồi trở lại giai đoạn trầm lắng từ năm 2008 trở về sau. Bên
    cạnh những cuộc IPO thành công thì cũng có không ít những đợt IPO thất bại, thậm
    chí là thất bại nhiều lần( Ví dụ như Tập đoàn Bảo Việt).Có đợt định giá cao, có đợt
    định giá thấp và cũng có những đợt không cao không thấp.
    Nhưng nhìn chung thì tại thị trường chứng khoán Việt Nam xu hướng định giá chủ
    đạo khi phát hành IPO là định giá cao. Nghĩa là tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư khi
    tham gia vào các đợt IPO này tính trung bình là số âm, thời gian nắm giữ càng dài (>6
    tháng) thì tỷ suất sinh lời càng âm. Xu thế này đặc biệt rõ ràng hơn đối với các công ty
    Nhà nước khi phát hành IPO mà điển hình là Vietcombank. Điều này có vẻ trái
    ngược với xu hướng chung của thị trường thế giới – nơi mà việc định giá thấp mới
    là chủ đạo.
    Vậy tại sao lại có sự khác biệt trong việc định giá cao tại thị trường Việt Nam?
    Nguyên nhân có thể kể đến ở đây đó là bất cân xứng thông tin, sự thiếu minh bạch
    về tình hình tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể vẽ ra viễn
    cảnh màu hồng qua bảng cáo bạch hay những chiêu PR. Điều này có thể gây
    ra ngộ nhận trong nhà đầu tư, khiến họ đánh giá cao tình hình kinh doanh của doanh
    nghiệp, kỳ vọng về một sự bùng nổ nào đó sau cổ phần hoá,từ đó họ tiến hành đặt giá
    IPO cao. Bên cạnh đó khi tiến hành IPO, ở các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước lại
    yêu cầu là không được để thất thoát tài sản của Nhà nước đồng thời các doanh nghiệp
    nhà nước cổ phần hoá lại yêu cầu về việc thặng dư vốn lớn khi cổ phần hoá. Điều này
    đã gây ra áp lực cho các doanh nghiệp làm cho giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này
    không thể bị định giá thấp được. Do đó,các nhà đầu tư phải cân nhắc kỹ khi
    tham gia vào các vụ IPO.
    o Đóng góp của đề tài
    Tìm hiểu nguyên nhân sự định dưới giá IPO,đặc biệt kết quả trong dài hạn của những
    cổ phiếu IPO so với những cổ phiếu không IPO.Đồng thời xác định xu hướng chung
    của thị trường thế giới là định giá thấp, trái ngược với phần lớn những đợt IPOs vừa
    qua tại Việt Nam đều định giá cao làm cho tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư khi nắm giữ
    cổ phiếu này bị âm
    o Hướng phát triển của đề tài
    Bài nghiên cứu dựa trên thực nghiệm thị trường chứng khoán Trung Quốc vào giai
    đoạn đầu,vì thế số lượng công ty niêm yết vẫn còn ít,chưa đại diện cho tổng thể thị
    trường cũng như ở thị trường Việt Nam khi nghiên cứu ,thị trường chứng khoán còn
    non trẻ và giai đoạn thực hiện IPO có nhiều sự việc xảy ra như khủng hoảng tài chính
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...