Chuyên Đề Sự biến đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải và những vấn đề đ

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Sự biến đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải và những vấn đề đặt ra

    MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài.
    Người H'Mông là một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông ở miền Bắc Việt Nam. Theo số liệu của cuộc điều tra dân số năm 1999 th́ dân số của dân tộc H'Mông là trên 55 vạn người. người H'Mông cư trú chủ yếu trên những vùng núi có độ cao trên dưới 1000m. Trải qua quá tŕnh thiên di hàng trăm năm tới định cư ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, người H'Mông đă xác lập cho ḿnh một diện mạo kinh tế - văn hoá – xă hội khá rơ nét. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H'Mông luôn luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. V́ thế mà đă từ lâu, người H'Mông trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong nước và trên thế giới.
    Văn hoá H'Mông là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà họ sáng tạo ra trong diễn tŕnh lịch sử của ḿnh. Trong văn hoá H'Mông, văn hoá tinh thần là một yếu tố không thể thiếu được trong cuộc sống của con người. Việc nghiên cứu văn hoá tinh thần của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc H'Mông nói riêng là sự đóng góp quan trọng trong việc bảo lưu những giá trị văn hoá truyền thống. Nghiên cứu văn hoá tinh thần c̣n là cơ sở khoa học cho nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật vận dụng, kế thừa tính dân tộc, giá trị văn hoá, quan điểm thẩm mỹ phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước.
    Đặc biệt, dưới góc độ văn hoá, lịch sử, nghiên cứu văn hoá tinh thần c̣n góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc trưng tộc người. Trên cơ sở đó, chúng ta có những cứ liệu khoa học đánh giá đúng vị trí văn hoá các dân tộc nói chung và văn hoá người H'Mông nói riêng để có định hướng đúng cho việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam dân tộc và hiện đại.
    Là một người con của vùng núi Tây Bắc - nơi có số lượng người H'Mông cư trú khá đông nên tôi có dịp được điền dă ở một số vùng người H'Mông sinh sống như Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn (tỉnh Yên Bái). Đó chính là điều kiện quan trọng có tính quyết định về mặt tài liệu để tôi lựa chọn và thực hiện đề tài khoá luận. Mặt khác trong quá tŕnh đi điền dă, văn hoá H'Mông, đặc biệt là văn hoá tinh thần có sức thu hút với rất lớn đối với tôi. Đó chính là những lư do thôi thúc tôi chọn đề tài về đời sống văn hóa tinh thần của người H'Mông. Tuy nhiên khi chọn địa bàn để nghiên cứu tôi đă chọn địa bàn huyện Mù Cang Chải. Bởi nếu các vùng người H'Mông cư trú khác hầu hết đều tiếp giáp với biên giới Lào và Trung Quốc th́ Mù Cang Chải là một khu vực hoàn toàn biệt lập. Bao quanh huyện là đồi núi với dăy Hoàng Liên Sơn có độ cao và độ dốc lớn, địa h́nh chia cắt mạnh; nhiều điểm cao trung b́nh từ 2000m đến dưới 3000m so với mực nước biển. Do đó sự giao lưu và trao đổi hàng hoá không phát triển như các nơi khác. Hơn nữa Mù Cang Chải là một huyện thuần người H'Mông (chiếm 95% dân số của huyện. Do đó văn hoá tinh thần của người H'Mông ở đây c̣n giữ được hầu như nguyên vẹn tính truyền thống.
    Tôi hy vọng việc nghiên cứu về “Đời sống văn hóa tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái” sẽ góp thêm những hiểu biết về người H'Mông nói chung và người H'Mông ở Mù Cang Chải nói riêng, đồng thời góp phần nhận diện và ǵn giữ những giá trị văn hoá tộc người trước những biến đổi của cuộc sống trong thời đại mới.
    2. Lịch sử vấn đề.
    Nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc ta nói chung, đời sống văn hoá của các dân tộc thiểu số nói riêng nhằm mục đích bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước đă và đang được các nhà khoa học quan tâm và thực hiện.
    Đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông được nhiều nhà khoa học, nhà quản lư văn hoá vùng người H'Mông đi sâu t́m hiểu, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái đă được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công tŕnh đó.
    Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải do huyện uỷ Mù Cang Chải biên soạn năm 1995 đă giới thiệu sơ lược về người H'Mông và truyền thống đấu tranh của của người H'Mông ở Mù Cang Chải.
    Cuốn Yên Bái nơi hội tụ của đồng bào các dân tộc của nhà nghiên cứu Hà Lâm Kỳ, Nxb Văn hoá dân tộc, 1996 đă giới thiệu những nét khái quát nhất về nguồn gốc, tên gọi, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc hiện đang sinh sống trên đất Yên Bái trong có nhắc đến dân tộc H'Mông ở huyện Mù Cang Chải.
    Cuốn Mỗi nét hoa văn do nhà nghiên cứu Hà Lâm Kỳ làm chủ biên, Nxb Văn hoá dân tộc, 2001. Đây là tác phẩm viết về những nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần của một số dân tộc ở Yên Bái, trong đó có bài viết của tác giả Minh Khương về một số nghi lễ trong cuộc sống gia đ́nh của đồng bào H'Mông ở Mù Cang Chải.
    Cuốn Dân tộc Mông ở Việt Nam của hai tác giả Hoàng Nam và Cư Hoà Vần, Nxb Văn hoá dân tộc, 1994. Các tác giả đă giới thiệu khái quát về lích ử di cư, tên gọi, địa bàn cư trú, phân nhóm, sinh hoạt vật chất và tinh thần của dân tộc H'Mông ở Việt Nam, trong đó có đề cập tới người H'Mông ở Mù Cang Chải.
    Cuốn Lịch sử người Mèo của cha cố Savina (người Pháp), xuất bản tại Hồng Kông năm 1924. Đây là công tŕnh nghiên cứu về đặc điểm trong đời sống văn hoá và xă hội của dân tộc H'Mông để phục vụ cho mục đích truyền đạo và thiết lập ách thống trị của thực dân Pháp ở vùng người H'Mông. V́ vậy, công tŕnh này manh nặng quan điểm của thực dân Pháp áp đặt khiên cưỡng khi cho rằng người H'Mông và văn hoá dân tộc H'Mông có nguồn gốc sâu xa từ phương Tây. Mặc dù vậy, công tŕnh này cũng có giá trị về mặt tư liệu trong việc nghiên cứu về nguồn gốc và những tập tục xă hội của dân tộc H'Mông.
    Cuốn Văn hoá tâm linh của người H'Mông ở Việt Nam truyền thống và hiện đại của tác giả Vương Duy Quang, Nxb Văn hoá Thông tin, 2005. Tác giả viết về đời sống tâm linh truyền thống của người H'Mông, những nét mới trong đời sống tâm linh của đồng bào H'Mông hiện nay và những tác động của sự biến đổi đó tới văn hoá dân tộc H'Mông, trong đó tác giả có đề cập tới đời sống tâm linh của người H'Mông ở Mù Cang Chải.
    Cuốn Dân ca H'Mông của nhà sưu tầm văn hoá dân gian Doăn Thanh, Nxb Văn học, 1984 là công tŕnh sưu tập hệ thống các bài hát dân ca của dân tộc H'Mông - một yếu tố quan trọng làm nên văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông.
    Cuốn Âm nhạc dân tộc H'Mông của Hồng Thao, Nxb Văn hoá dân tộc, 1997. Trong tác phẩm tác giả đi sâu nghiên cứu về các nhạc khí của dân tộc H'Mông, lời ca trong bài hát H'Mông, trên cơ sở đó tác giả rút ra những đặc điểm của âm nhạc H'Mông. Đây là một tài liệu có giá trị quan trọng để nghiên cứu về văn hoá thần của dân tộc H'Mông ở Việt Nam nói chung và dân tộc H'Mông ở Mù Cang Chải nói riêng.
    Ngoài những tác phẩm trên, đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông ở Mù Cang Chải c̣n được phản ánh trong nhiều bài viết, công tŕnh nghiên cứu trên các tạp chí: Dân Tộc học, Văn hoá dân gian, Nghiên cứu lịch sử Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công tŕnh nào nghiên cứu và dựng lại toàn diện đời sống văn hoá của người H'Mông ở Mù Cang Chải – Yên Bái. Đây là vấn đề mới mẻ và là việc làm cần thiết phục vụ cho mục đích bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc H'Mông nói chung, văn hóa người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải nói riêng.
    3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
    3.1. Nguồn tư liệu.
    Nghiên cứu đời sống văn hoá tinh thần của các dân tộc H'Mông ở Mù Cang Chải tác giả đă dựa vào các nguồn tư liệu chủ yếu sau:
    a. Các tác phẩm, các công tŕnh nghiên cứu đề cập đến người H'Mông và văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông của các nhà nghiên cứu như:
    - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
    - LỊch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải.
    - Lịch sử người Mèo của Savina.
    - Yên Bái nơi hội tụ của đồng bào các dân tộc của Hà Lâm Kỳ.
    - Mỗi nét hoa văn của Hà Lâm Kỳ.
    - Các báo cáo của sở văn hoá Yên Bái.

    b. Nguồn tư liệu địa phương.
    Tác giả đă tiến hành điền dă tại một số xă tập trung người H'Mông sinh sống trên địa bàn huyện Mù Cang Chải, tập hợp nguồn tư liệu truyền miệng về phong tục tập quán, tục lệ xă hội, ca dao, lễ hội, của người H'Mông do những người am hiểu phong tục tập quán của dân tộc H'Mông cung cấp.
    3.2. Phương pháp nghiên cứu.
    Sưu tầm tài liệu tại các thư viện Quốc Gia, Pḥng tư liệu của Bảo tàng dân tộc học, thư viện trường Đại học khoa học xă hội nhân văn, Thư viện tỉnh Yên Bái, Bảo tàng tỉnh Yên Bái, Thư viện huyện Mù Cang Chải, Pḥng văn hoá thông tin huyện Mù Cang Chải.
    Phương pháp thực địa, điền dă tại một số xă của huyện Mù Cang Chải, tṛ chuyện trực tiếp với cán bộ địa phương và đồng bào dân tộc H'Mông ở đây.
    Đề tài c̣n sử dụng phương pháp phân tích, so sách, tổng hợp, đánh giá và rút ra những kết luận xác thực nhất cho vần đề cần nghiên cứu.
    4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đề tài nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông, cụ thể là dân tộc H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái trên các khía cạnh chủ yếu của đời sống văn hoá tinh thần đồng thời cũng nêu thêm những nét mới trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông Mù Cang Chải và đưa ra một giải pháp để ǵn giữ và phát huy những giá trị văn hoá tộc người.
    4.2. Đối tượng nghiên cứu
    + Về không gian: huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái
    + Về thời gian: Khoá luận nghiên cứu văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông từ khi dân tộc H'Mông đến sinh sống ở huyện Mù Cang Chải đến ngày nay.
    5. Bố cục của đề tài.
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gốm ba chương.
    Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên và người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái.
    Chương 2: Đời sống văn hoá tinh thần truyền thống của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải - Yên Bái.
    Chương 3: Sự biến đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải và những vấn đề đặt ra.


    Chương 1
    KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGƯỜI HMÔNG
    Ở HUYỆN MÙ CANG CHẢI – YÊN BÁI
    1.1. Điều kiện tự nhiên.
    1.1.1. Điều kiện tự nhiên:
    Là một huyện vùng cao nằm phía Tây tỉnh Yên Bái. Mù Cang Chải giáp huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai về phía Bắc, huyện Mường La tỉnh Sơn La về phía Nam, huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái về phía Đông và huyện Than Uyên tỉnh Lào Cai về phía Tây.
    Tổng diện tích của huyện là 119.913 ha, trong đó đất nông nghiệp là 6.193 ha, đất lâm nghiệp 13.041 ha, đất ở 195 ha, đất chưa sử dụng 100.215 ha. Riêng diện tích trồng lanh chỉ khoảng từ 35 ha đến 40 ha.
    Địa phận huyện Mù Cang Chải hiện nay thuộc phạm vi dăy Hoàng Liên Sơn với hệ thống núi cao và đồ sộ nhất Việt Nam nên địa h́nh bị chia cắt dữ dội và có độ dốc lớn. Độ cao trung b́nh của toàn huyện là 800 - 1200 m nhưng có nhiều đỉnh cao hơn 2000m, thậm chí có đỉnh núi thuộc xă Nậm Có cao tới 2771m. Đất Mù Cang Chải chủ yếu là loại đất pheralít núi có mùn phát triển trên đá phiến thạch rất thích hợp với cây chè, thông, mía. Đất thung lũng và đất phù sa không bồi chiếm tỉ lệ thấp. Những nơi có độ cao lớn như Lao Chải, Nậm Có có tầng mùn dầy, trồng đậu, lạc, vừng rất tốt.
    Với vị trí địa lư nằm sát chí tuyến Bắc, hàng năm mặt trời hai lần đi qua thiên đỉnh (trung tuần và hạ tuần tháng 6) nhưng do chịu ảnh hưởng của quy luật đai cao nên khí hậu Mù Cang Chải mang tính chất á nhiệt đới gió mùa vùng núi cao. Ở đây, tổng nhiệt độ năm là 6500 – 7000[SUP]0[/SUP]C, nhiệt độ trung b́nh hàng năm là 15-20[SUP]0[/SUP]C nhưng những tháng mùa đông, có ngày nhiệt độ xuống dưới 0[SUP]0[/SUP]C cùng với những hiện tượng thời tiết như sương muối, băng giá và tuyết và mùa hè vào những đợt nắng nóng có gió Lào, nhiệt độ buổi trưa có khi lên tới 30–35[SUP]0[/SUP]C.
    Mạng lưới suối chiếm khoảng 2% tổng diện tích tự nhiên phân bố rải rác ở nhiều nơi trong huyện. Phần lớn các suối là suối nhỏ, ngắn và dốc, lưu lượng nước ít, thất thường và hầu như không có bồi tụ, ḷng suối đầy những tảng đá lớn.
    Trong hệ thống thủy văn ở đây, Nậm Kim là con suối dài và lớn nhất, bắt nguồn từ vùng núi cao Púng Luông chảy dọc quốc lộ 32 qua địa phận các xă La Pán Tẩn, Dế Xu Ph́nh, Chế Cu Nha, Mồ Dề, Kim Nọi, Lao Chải, Khao Mang, Hổ Bốn rồi đổ về ḍng Nậm Mu ở Than Uyên. Suối Nậm Kim có nguồn nước khá dồi dào nên có khả năng mở mương máng thủy lợi dẫn nước tưới ruộng và xây dựng các trạm thủy điện.
    Lượng mưa trung b́nh hàng năm ở Mù Cang Chải là 1500-2000mm, nhưng lại phân bố không đều. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, cực đại vào tháng 6,7, có tới 112 ngày mưa tập trung 88% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3, khô nhất là vào các tháng 12 và tháng 1. Trong các tháng mùa khô, chỉ có 36 ngày mưa với lượng mưa hơn 200mm (chiếm 12% lượng mưa cả năm), trong khi lượng bốc hơi quá lớn, gần 600mm, gây nên t́nh trạng khô hạn ở nhiều nơi, nhất là vùng cao, thậm chí nước cho sinh hoạt c̣n thiếu.
    Nh́n chung, khí hậu Mù Cang Chải không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Mùa đông th́ rét kéo dài, có năm ở một số xă c̣n có tuyết rơi. Mùa hè th́ mưa to, đá lở làm xói ṃn đồi núi và sạt lở đường giao thông. Sương muối xuất hiện nhiều vào tháng 1 và tháng 2. Mưa đá thường xảy ra vào cuối tháng 4, tháng 5, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất cũng như đời sống của nhân dân.
    Thảm thực vật ở Mù Cang Chải cũng rất phong phú về chủng loại. Ở đây, rừng á nhiệt đới núi cao chiếm ưu thế, bao gồm những vùng lá kim chính như pơmu, các loại thông, sa mộc, liều sam xen lẫn với các loài cây lá rộng thuộc họ sổi dẻ và họ đỗ quyên. Lên cao hơn từ độ cao 1800m trở lên, là đai rừng ôn đới trên núi với những loại cây thật quư hiếm như lănh sam, vân sam, thiết sam, thông mọc xen kẽ. Hệ động vật ở Mù Cang Chải gồm nhiều loài đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới như hổ, báo, nai, hoẵng, sơn dương, mèo rừng, các loại chim, công, trĩ .
    Thế nhưng, do nhiều năm qua, việc du canh du cư, phát rừng làm rẫy của đa số cư dân ở đây và quá tŕnh khai thác bừa băi đă làm cho diện tích rừng ở Mù Cang Chải ngày càng bị thu hẹp. Tính đến năm 2005, diện tích rừng của Mù Cang Chải chỉ c̣n hơn 11 000 ha (6216 ha rừng tự nhiên; 5300,92 ha rừng trồng) chiếm 10% tự nhiên toàn huyện. Trong số diện tích rừng tự nhiên ít ỏi đó chủ yếu là rừng thứ sinh với các sa van cỏ, sa van cây bụi. Hiện nay, trong rừng tuy vẫn c̣n những loại gỗ quư như lát, lim, pơ mu, cḥ chỉ . nhưng khối lượng không nhiều; các loài thú quư như hổ, báo, gấu . c̣n không đáng kể.
    Về mặt phân chia hành chính th́ Mù Cang Chải gồm có 13 xă với 110 bản được tách ra từ một số huyện của các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Lào Cai vào ngày 18-10-1957 và cái tên Mù Cang Chải cũng ra đời trong thời gian này. Mù Cang Chải là tên ghép của hai địa danh đầu và cuối của huyện: dăy núi Mù Cang (nghĩa là: núi có nhiều cây khô) ở phía Nam và xă Lao Chải (nghĩa là: nơi ở lâu) ở phía Bắc. Theo thống kê năm 1997, huyện có 4855 hộ với 35295 người, trong đó, dân tộc Hmông chiếm 91,1%, Kinh 3,9%, Thái 3,8% và dân tộc Tày chiếm 1,2%.
    Được sự đầu tư của Nhà nước thông qua các chương tŕnh như phát triển vùng cao, xây dựng nông thôn mới ., nhất là các chương tŕnh định canh định cư kéo dài hơn 30 năm nay, huyện đă xây dựng được một số hồ đập chứa nước, hàng trăm con mương, trong đó có những con mương lớn như mương Dế Xu Ph́nh, Nậm Có, Lao Chải, Chế Cu Nha, Kim Nọi . Do địa h́nh phần lớn là núi cao nên cư dân ở đây, đặc biệt là người Hmông đă cố gắng khai mở các đường mương dẫn nước trên các sườn núi, tạo nên một hệ thống ruộng bậc thang rất ngoại mục, nhất là ở hai khu vực xă Púng Luông và xă La Pán Tẩn.
    Về mạng lưới giao thông, Mù Cang Chải có quốc lộ 32 chạy qua địa phận của 10 xă (trừ 3 xă là Nậm Có, Nậm Khắt và Chế Tạo) với chiều dài khoảng 60km là con đường huyết mạch giao thông quan trọng nhất. Năm 1971, huyện mở đường Ngă Ba Kim đi Nậm Khắt. Qua nhiều năm, nhiều lần tu bổ, xe cộ đă có thể đi lại trên tuyến đường này. Ngoài ra, Mù Cang Chải c̣n có hai con đường ṃn dân sinh quan trọng là đường Chế Cu Nha đi Nậm Có và Nậm Khắt đi Khao Vai.
    Nh́n chung, mạng lưới giao thông như vậy đảm bảo việc đi lại của người dân trong vùng. Nhưng do chất lượng của mặt đường c̣n thấp, chủ yếu là đường đất, thậm chí ngay quốc lộ 32 được rải đá cấp phối nhưng mùa mưa xe cộ đi lại c̣n rất khó khăn, hạn chế nhiều việc giao lưu trao đổi hàng hóa của nhân dân các xă trong huyện cũng như đối với các nơi khác. Cùng với sự chuyển đổi phương thức quản lư của nhà nước từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, từ cuối những năm 1980 thị trường địa phương đă được h́nh thành. Huyện đă thành lập ba trung tâm vùng ở ba khu vực: Púng Luông, huyện lỵ và Khao Mang với hệ thống chợ, các cửa hàng bách hóa tổng hợp . thuộc nhiều thành phần kinh tế, bước đầu đă đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán của nhân dân trong huyện. Hàng năm, hàng hóa của huyện xuất ra trao đổi với bên ngoài chủ yếu gồm có: sơn trà 2300 tấn, chè búp khô 10 tấn, trâu ḅ 500 con, ư dĩ 100 tấn, mật ong 6 tấn, nhựa thông 100 tấn.
    Các dân tộc Mù Cang Chải tuy thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau nhưng đều chung sống xen kẽ. Người dân có thể nói nhiều thứ tiếng của các dân tộc anh em, am hiểu và tôn trọng phong tục tập quán của nhau. Các dân tộc c̣n có kho tàng văn hóa dân gian phong phú bao gồm hệ thống dân ca, truyện cổ và các loại nhạc cụ khác nhau. Hệ thống lễ hội khá phong phú, bao gồm các loại hội xuân như hội xuống đồng, hội “sải sán”, hội mùa thu mừng được mùa ăn cơm mới và hàng loạt các sinh hoạt văn hóa dân gian khác góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa truyền thống các dân tộc ở Mù Cang Chải.
    1.2. Đôi nét về lịch sử người H'Mông.
    Người Hmông là một trong các dân tộc thiểu số có dân số tương đối đông ở miền Bắc nước ta với trên 55 vạn người (số liệu Tổng điều tra dân số năm 1999). Người Hmông trước kia c̣n được gọi là người Mèo, họ sinh sống ở những vùng núi cao trên dưới 1000m so với mặt nước biển, với nhiệt độ trung b́nh trên 20[SUP]0[/SUP]C, lượng mưa trung b́nh hàng năm từ 1800-2000mm, thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Ḥa B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An. Riêng ở vùng Tây Bắc, người Hmông cư trú tập trung tại các huyện Tủa Chùa, Tuần Giáo, Điện Biên (tỉnh Lai Châu), Mù Cang Chải, Trạm Tấu (Yên Bái), Mộc Châu, Thuận Châu (Sơn La), Mai Châu (Ḥa B́nh).
    Người Hmông gồm nhiều nhóm địa phương: nhóm Hmông Đơ (Hmông Trắng), Hmông Đu (Hmông Đen), Hmông Lềnh (Hmông Hoa), Hmông Sư (Hmông Đỏ), Hmông Sua (Hmông Xanh), Na Miẻo. Sự phân biệt này một phần dựa trên sự khác nhau về trang phục và ngôn ngữ. Giữa các nhóm có sự phân biệt về một số bộ phận trên y phục (kích thước, mầu sắc, các mô típ trang trí hoa văn .) nhưng nh́n chung trang phục người Hmông là thống nhất và phân biệt hẳn về mặt tộc người với các dân tộc khác.
    Về nguồn gốc người Hmông hiện c̣n nhiều ư kiến khác nhau. Trong cuốn “Lịch sử người Mèo, học giả Savina cho rằng người Hmông xưa kia cư trú ở vùng Xibêri - nơi quanh năm tuyết phủ, có 6 tháng ngày và 6 tháng đêm. Vào triều Hoàng đế (Trung Quốc) - 2500 trước công nguyên, họ chuyển tới lưu vực sông Hoàng Hà. Về sau họ bị người Hán đàn áp nên phải di cư về phương Nam [27;39]
    Có ư kiến lại cho rằng người H'mông là một trong những tộc người nằm trong khối Bách Việt, có chung gốc gác với người Dao thuộc ngữ hệ Nam Á nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao. Tổ tiên của họ đă sớm biết nghề trồng lúa nước ở vùng giữa hồ Bành Lăi và Động Đ́nh thuộc Nam Trung Quốc. Đến thế kỷ VIII sau công nguyên 2 tộc H'mông và Dao mới tách ra. Từ thế kỷ IX - XVI, người Hmông di cư về phía Tây Nam tập trung ở Quư Châu sau đó mới di cư vào Việt Nam [5;27].
    Người H'mông cho rằng, tổ tiên họ xưa kia vẫn cư trú ở Trung Quốc, sau bị phong kiến Măn Thanh chèn ép, nên họ phải di cư sang Việt Nam. Nhiều tài liệu và sách của Trung Quốc cũng nói đến sự kiện đầy bi thảm của người H'mông ở Trung Quốc trong thời ḱ bị phong kiến Măn Thanh đàn áp. Vào nửa cuối thế kỷ XVII, nhiều cuộc nổi dậy của người H'mông và các tộc người thiểu số khác đă liên tiếp nổ ra chống lại phong kiến Măn Thanh. Các cuộc khởi nghĩa này kéo dài hơn 100 năm nhưng cuối cùng đều thất bại và bị triều đ́nh Măn Thanh đàn áp đẫm máu. Đến năm 1849, sau thất bại của phong trào Thái B́nh Thiên Quốc, hầu hết đất đai của người Hmông bị tước đoạt, nhiều làng mạc bị triệt hạ, cư dân bị tàn sát, xua đuổi tan tác. Từ đó, họ đă có nhiều đợt thiên di xuống vùng Nam và Tây Nam lục địa Trung Hoa để lánh nạn. Chính trong thời kỳ này nhiều nhóm Hmông đă ồ ạt nhập Việt; theo các tài liệu điền dă dân tộc học th́ người H'mông mới đến Việt Nam khoảng trên dưới 200 năm.
    1.3. Sự phân bố của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
    Những tư liệu điền dă dân tộc học cho biết, người H'mông từ Trung Quốc sang Việt Nam qua Lào Cai rồi vào Tây Bắc theo 2 hướng:
    Một hướng từ Lao Xả Ph́nh (tỉnh Lào Cai) qua Giào San (huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) đến Tủa Chùa, Tuần Giáo rồi về Long Hẹ, Điện Biên .
    Một hướng khác từ vùng núi phía Nam Lào Cai đến Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Bắc Yên rồi sang vùng núi Mộc Châu. Một số nhóm từ Mù Cang Chải chuyển thẳng tới Tủa Chùa, Thuận Châu, Điện Biên. Những chặng đường di cư của người H'mông vào Tây Bắc c̣n được phản ánh trong những bài cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên.
    So với các khu vực khác, huyện Mù Cang Chải là nơi người H'mông có tỷ lệ cao nhất so với các dân tộc khác (chiếm tới 95% dân số của cả huyện. Trong khi các huyện khác nằm trên dăy Hoàng Liên Sơn như Trạm Tấu chỉ chiếm 78,5%, Bắc Hà 63,2%, Sa Pa 50,22%, Mường Khương 32,86%, Bát Xát 28,23%, Than Uyên 10,65% [19;23]. Mù Cang Chải chỉ có 13 xă th́ trong đó 9 xă người H'mông chiếm trên 90% dân số, 4 xă chiếm từ 61-90% dân số toàn xă. Đặc trưng cư trú ở đây là có sự xen kẽ giữa dân tộc H'mông với các dân tộc khác như Kháng, Tày, Kinh, Dao, Là cư dân tới sau nên họ cư trú chủ yếu trên các triền núi cao trong t́nh trạng phân tán. Trong từng xă có thể có sự cư trú xen kẽ giữa họ với các dân tộc khác nhưng trong từng bản lại không có hiện tượng cư trú hỗn hợp giữa người H'mông với các dân tộc khác. Ví dụ ở xă Kim Nọi có 7 bản th́ 6 bản hoàn toàn người H'mông, 1 bản hoàn toàn người Thái; xă Cao Phạ có 1 bản người Thái và 6 bản người H'mông. Mật độ cư dân ở Mù Cang Chải trong những năm vừa qua cũng không ngừng tăng lên.
    Người H'mông ở đây bao gồm 4 nhóm người H'mông: H'mông Lềnh (H'mông Hoa), H'mông Sư (H'mông Đỏ), H'mông Đu (H'mông Đen), H'mông Đơ (H'mông Trắng). Trong đó nhóm H'mông Hoa đông nhất chiếm khoảng 60% dân số, sống ở các xă Cao Phạ, Nậm Khắt, Nậm Có, Púng Luông, La Pán Tẩn, Dế Xu Ph́nh, Chế Cu Nha, Kim Nọi; nhóm H'mông Đỏ chiếm 30% sống xen kẽ trong các bản làng với nhóm Hmông Hoa ở các xă Kim Nọi, Mồ Dề, Chế Tạo, Khao Mang, Lao Chải; nhóm H'mông Trắng có số lượng ít nhất sống ở các bản Trống Là, Sáng Nhù, Háng Đề Chu, Trống Trở, Páo Láu, Háng Áng thuộc xă Hổ Bốn.
    2. Một số đặc điểm kinh tế - văn hóa - xă hội.
    2.1. Kinh tế.
    Từ khi đến sinh cơ lập nghiệp ở Mù Cang Chải, đồng bào H'mông đă trải qua một quá tŕnh lao động lâu dài để không ngừng biến tài nguyên thiên nhiên thành những của cải vật chất cần thiết đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống.
    Mặc dù có một ít ruộng nước nhưng nguồn sống chính của người Hmông vẫn là nương rẫy. Căn cứ vào quá tŕnh sử dụng có thể phân chia nương làm hai loại: nương định canh và nương du canh, trong đó nương du canh là chủ yếu. Trên ruộng nương, ngoài ngô, lúa là cây trồng chính c̣n có mạch ba góc, ư dĩ, khoai, rau, lạc, đậu, vừng, lanh . Các loại cây đặc sản và cây ăn quả cũng khá phát triển.
    Do xu hướng thâm canh năng suất và định canh định cư, từ lâu, người H'mông ở Mù Cang Chải đă chú ư khai khẩn ruộng bậc thang trên các sườn núi và trong những năm qua do công tác thủy lợi được tăng cường, diện tích ruộng bậc thang không ngừng được phát triển. Trong những năm gần đây, do có sự chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng và thời vụ, từ chỗ chỉ sản xuất một vụ trong năm đă tăng lên 3 vụ, đó là vụ đông xuân, vụ mùa và vụ thu đông. Năng suất lúa thường đạt 15-20 tạ/ha một vụ.
    V́ sản xuất trên ruộng và nương thổ canh chưa đảm bảo được những nhu cầu sinh hoạt, nên đồng bào cũng phải làm nương du canh, chỉ trồng được 2-3 vụ lại bỏ. Việc chọn đất thường được tiến hành trước Tết theo những kinh nghiệm cổ truyền và đất đă được lựa chọn đánh dấu quyền chiếm hữu quy ước chung. Sau đó nương được phát vào tháng chạp hay tháng giêng, hai và đốt, dọn vào tháng ba, chuẩn bị cho trồng trọt.
    Trên nương lúa thường trồng xen các loại dưa, bí và các loại rau đậu. Việc xen canh đă trở thành tập quán lâu đời, thể hiện khả năng chịu của nông nghiệp H'mông trong những điều kiện tự nhiên cụ thể. Xung quanh nương được bao bọc bởi những luống ư dĩ. Sau khi thu hoạch vụ hè thu, người H'mông c̣n trồng đậu răng ngựa, mạch ba góc vụ đông. Các cây trồng đều được làm cỏ 2-3 lượt. Năng suất lúa, ngô nương có thể đạt từ 1,2 tấn đến 1,5 tấn/ha; rau, đậu cũng thu hoạch được số lượng đáng kể. Các loại củ (mài, khoai sọ .) cũng được trồng nhiều.
    Canh tác nương rẫy phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, năng suất cây trồng không ổn định và mỗi mảnh nương chỉ làm được vài năm. Ở một số nơi đồng bào đă làm nương theo chế độ luân khoảnh kết hợp với bảo vệ rừng, trồng rừng. Cùng với việc tạo ruộng bậc thang, cách sử dụng đất như vậy cho phép đồng bào có thể định cư tốt.
    Trong các loại cây công nghiệp, lanh là loại cây trồng phổ biến, chiếm một diện tích khá lớn. Vải lanh dùng làm váy, may quần, áo, khâu bao đựng bột, làm mặt chăn, địu . Theo quan niệm của đồng bào, người chết phải có áo ngoài bằng vải lanh th́ mới được về đoàn tụ với tổ tiên. mỗi người thiếu nữ từ 15-16 tuổi đến các bà cụ 60 tuổi đều có đám lanh riêng cho ḿnh. Cây lanh sau khi chặt vào khoảng tháng 6, được phơi khô tước lấy vỏ và từ vỏ lanh làm thành sợi. Việc này đ̣i hỏi nhiều thời gian cho nên người phụ nữ lúc nào cũng có vỏ lanh quanh ḿnh, tranh thủ tước sợi trong lúc nghỉ lao động sản xuất, lúc đi dường hay họp chợ, để có nguyên liệu cho công việc dệt vải thường được tiến hành vào tháng 11-12. Mỗi năm, một người có thể làm được 4-5 tấm vải, mỗi tấm dài 20 vuông khổ nhỏ.
    Cây thuốc phiện trước đây được trồng nhiều đem lại nguồn thu nhập quan trọng; nay không được trồng nữa đă gây ra những xáo trộn trong đời sống kinh tế của người H'mông.
    Chăn nuôi cũng là ngành kinh tế bổ trợ quan trọng trong cơ cấu hệ thống kinh tế nông nghiệp H'mông. Các loại gia súc, gia cầm chính thường được các gia đ́nh nuôi gồm có trâu, ngựa, lợn, gà . Mục đích chính của kinh tế chăn nuôi là nhằm thỏa măn các nhu cầu về sức kéo, vận chuyển; đôi khi các sản phẩm của kinh tế chăn nuôi c̣n được dùng vào các mục đích tôn giáo, tín ngưỡng (lễ tết, ma chay .) hay trong các dịp sinh hoạt cộng đồng khác (như cưới hỏi, về nhà mới .). Xưa kia đàn gia súc c̣n là một tiêu chuẩn đánh giá giàu nghèo, nên các gia đ́nh người H'mông đều mong muốn có đàn gia súc, gia cầm đông đúc.
    Kinh tế tự nhiên (săn bắt, đánh cá, hái lượm) cũng có vị trí khá quan trọng trong đời sống thường nhật của người H'mông. Họ thường thu hái củ gấu, đẳng sâm, hà thủ ô, hoàng liên, cánh kiến, chè ., những thứ có giá trị hàng hóa cao để trao đổi và t́m kiếm các loại cây, củ, quả . có giá trị dinh dưỡng để làm phong phú thêm các bữa ăn hàng ngày. Ngoài mục đích t́m kiếm thêm nguồn thực phẩm, người H'mông đi săn c̣n nhằm mục đích bảo vệ mùa màng. Đối tượng săn là các loại thú như: lợn rừng, hổ, gấu, cầy, chồn, khỉ, gà rừng . Vũ khí cho việc săn bắt là súng kíp, nỏ và các loại cạm bẫy .
    Sản xuất thủ công nghiệp gồm các nghề: đan lát mây tre, làm đồ gỗ, dệt vải, làm giấy bản, làm đồ trang sức, rèn nông cụ, vũ khí, làm nhang, nấu rượu . Về cơ bản tiểu thủ công nghiệp hộ gia đ́nh là một bộ phận không thể thiếu được trong cơ cấu nông nghiệp H'mông, nhưng ở đây đă xuất hiện một lớp thợ chuyên nghiệp trong một vài nghề như rèn đúc, làm bạc. Sản phẩm của thủ công nghiệp chủ yếu thỏa măn những nhu cầu của sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nh́n chung, tŕnh độ kỹ thuật của những người thợ thủ công nghiệp dư ở tŕnh độ khá cao, có những nghề họ đă đạt độ tinh xảo như nghề làm bạc, làm mộc và đặc biệt là nghệ thuật trang trí hoa văn trên vải.
    1.2. Các dạng thức văn hóa cơ bản.
    Trong phần này tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược về một số dạng thức văn hóa liên quan đến sinh hoạt vật chất, tổ chức xă hội. Riêng về đời sống tinh thần là nội dung chính của luận văn nên tôi sẽ không giới thiệu ở đây.
    Ăn, uống: Nguồn lương thực chủ yếu là ngô, lúa, tùy từng nơi mà đồng bào coi trọng ngô hoặc lúa. Người H'mông ăn ngày hai bữa trưa và tối. Vào ngày mùa ăn ba bữa. Ngô thường được xay thành bột làm “mèn mén”. Với gạo, thường ngày họ ăn gạo tẻ, gạo nếp để dành giă làm bánh ăn trong các dịp lễ, tết. Các món ăn chủ yếu được chế biến theo cách thức luộc hoặc xào. Các loại thị nếu có nhiều ăn tươi không hết họ thường để dành bằng cách sấy khô trên gác bếp. Rau xanh, đậu đỗ, bầu bí . cũng thường được xào hoặc nấu canh. Cơm và rau được xúc ăn bằng th́a. Thông thường vào các dịp tết hoặc khi có khách bữa cơm bao giờ cũng sang hơn ngày thường. Khi có khách, phụ nữ không được ngồi ăn chung với mâm khách. Khi bầy mâm, bát thức ăn chung và bát muối ớt được đặt ở giữa; nhiều người cho rằng đây chính là biểu hiện của tính cộng đồng vốn thể hiện rất rơ ở các dân tộc phương Đông. Người H'mông rất thích uống rượu; chủ yếu là rượu ngô được chưng cất. Khi uống dùng bát hoặc chén. Xưa kia, người H'mông hút nhiều thuốc phiện; hầu như gia đ́nh nào cũng có từ một đến vài ba bàn đèn. Cả đàn ông, đàn bà, người già, trung niên đều hút thuốc phiện. Đồng bào thường hút trước lúc đi làm, sau khi ăn trưa, sau bữa ăn tối. Trong các dịp đám ma, đám cưới . đều có hút thuốc phiện. Một số người hút thuốc lào đồng bào tự trồng, tự thái phơi để hút.
    Trang phục: Người H'Mông có một đặc biệt là xe sợi lanh dệt vải. Lanh trồng vụ xuân đến tháng 7 – 8 thu hoạch đập bỏ lơi, vỏ phơi khô tước nhỏ xe sợi dệt thành vải. Chỉ trừ lúc ở ngoài ruộng, trên nương, lúc ngủ c̣n th́ ở nhà, đi đường, đi chợ phụ nữ H'Mông lúc nào cũng có bó lanh vắt vẻo trên vai, luôn tay tước lanh xe sợi.
    Trang phục của phụ nữ H'Mông rất sặc sỡ, đa dạng, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn cuốn đầu to xù, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy của phụ nữ H'Mông h́nh nón cụt, xếp nếp x̣e rộng. Tuy vậy, mỗi nhóm H'Mông khác nhau váy áo cũng có những nét khác nhau. Váy của người H'Mông Trắng để nguyên vải sợi lanh se, có thêu chỉ màu sặc sỡ quanh gấu; áo th́ xẻ ngực có thêu hoa văn ở cánh tay và yếm lưng. Váy của người H'Mông hoa màu chàm có thêu hoặc in hoa ở quanh gấu váy, c̣n áo th́ xẻ nách, trên vai và ngực có nẹp thêm vài mẫu thêu hoa văn, thường là h́nh con ốc. Váy của nữ H'Mông đen cũng như phụ nữ H'Mông trắng và H'Mông hoa nhưng ngắn hơn, màu chàm, hoa văn màu trắng, c̣n áo th́ giống áo của phụ nữ H'Mông trắng nhưng thêu hoa ở cánh tay và cổ áo. Váy của phụ nữ H'Mông xanh may bằng vải chàm, sát gấu có thêu hoa văn h́nh chữ thập trong các h́nh vuông, nhưng váy may h́nh ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; c̣n áo th́ mở chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay và cổ áo đều thêu hoa văn, gấu áo cũng khâu đề ba bốn lớp vải màu, áo xẻ tà không khâu mà buộc dây giữ hai tà.
    Trang phục của đàn ông H'Mông giống như đàn ông Nùng: quần dài, đũng chân què, cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng cài khuy, quần áo đều màu chàm.
    Ở: Người Hmông cư trú thành các làng (jiao). Làng được cấu trúc theo lối mật tập: nhà cửa bố trí rải rác ven các sườn đồi. Nhà ở của người H'mông ở Yên Bái là nhà trệt, nhà thường gồm 3 gian 2 chái, gian giữa đặt bàn thờ “ma nhà”, hai bên là bếp và buồng ngủ, buồng ngủ thường không bố trí ngang hàng cùng với bàn thờ. Bàn thờ đơn giản chỉ là một ống hương, trên dán giấy bản cắm lông gà. Mỗi nhà đều được mở từ 2 đến 3 cửa. Mọi người trong nhà, nhất là phụ nữ thường đi lại hàng ngày chủ yếu qua cửa phụ. Nhà ở cũng là nơi để lương thực. Ngô xếp trên bếp, một số nơi làm kho cạnh nhà. Các chuồng gia súc nằm cách nhà không xa. Để chống gió, khí hậu lạnh, sương mù ở vùng cao, nhà ở của họ thường có đặc tính thấp, vững chắc, kín đáo. Nhà của người giàu thường khá rộng, tường tŕnh, cột gỗ kê đá tảng đẽo h́nh đèn lồng hay h́nh quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Nhà nghèo phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Ngoài thờ “ma nhà” người Hmông c̣n thờ “cột ma nhà”. Cột này nằm ở v́ kèo thứ hai ngăn giữa hai đầu hồi bên phải. Người Hmông quan niệm “cột ma” là cột linh thiêng, người ta kiêng không được ngồi dựa vào cột, không treo lên cột bất cứ thứ ǵ. Khi sinh con, nếu là con trai, nhau đẻ được chôn ở dưới cột này (nhau của trẻ em gái chôn dưới gầm giường ở vách gian giữa nơi đặt bàn thờ). Khi dựng nhà, khâu quan trọng nhất là việc dựng cột ma. Mùa làm nhà của người H'mông thường từ tháng 11 đến tháng giêng âm lịch. Việc san nền, dựng cột thường phải chọn ngày giờ tốt, theo quan niệm của đồng bào. Trước khi dựng cột, chủ nhà mổ lợn, gà để cúng cột ma. Người Hmông cũng cúng “ma cửa” khi trong nhà có người ốm đau, dịch bệnh. Khi có người đẻ, chủ nhà cầm cành lá xanh đầu hồi nhà báo hiệu khách lạ không nên vào v́ sợ mang rủi ro đến cho đứa trẻ.
    Hôn nhân, gia đ́nh: Người H'mông quan niệm rằng việc dựng vợ gả chồng trước hết là để có con cái nối dơi tông đường, đồng thời nâng cao uy tín ḍng họ, tăng lực lượng lao động cho gia đ́nh và có chỗ nương tựa lúc tuổi già sức yếu. Nh́n chung, nam nữ H'mông lấy vợ lấy chồng tương đối sớm. Trước kia không thiếu trường hợp con trai 12-13 tuổi đă lấy vợ; người vợ thường nhiều hơn chồng 5-7 tuổi. tuổi kết hôn hiện nay thường là 17-18 đối với con trai, 15-16 đối với con gái. Ở người H'mông con gái đôi mươi mà chưa lấy được chồng đă bị coi là đă “quá lứa”, khó t́m được người bạn vừa ư. Gia đ́nh người H'mông là gia đ́nh một vợ một chồng bền vững, cư trú bên chồng. Ngoại hôn ḍng họ là nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân; hiện tượng nội hôn tộc người không bị tập quán hạn chế song trên thực tế người H'mông rất ít quan hệ hôn nhân với các tộc khác. Những người cùng ḍng họ dù xa đến mấy đời nếu đă “cùng ma” cũng không được lấy nhau. Trước kia, ở người H'mông cũng tồn tại h́nh thức hôn nhân chị dâu em chồng, hôn nhân con em con cậu. Tuy nhiên, hiện nay h́nh thức này không c̣n phổ biến.
    Tiêu chuẩn chọn vợ của con trai H'mông là có đạo đức, sức khỏe, lao động chăm chỉ, thủy chung với chồng, có hiếu với cha mẹ, nhất là biết dệt, thêu thùa váy áo đẹp. Những cô gái lười lao động, vụng về bếp núc, không biết thêu thùa . thường không lọt vào tầm nh́n của các chàng trai. Ở người H'mông, sắc đẹp không phải là tiêu chuẩn chính để người ta chú ư. Ngoài ra, khi t́m vợ cho con cái, cha mẹ cũng chú ư đến “môn đăng hộ đối”, hoàn cảnh kinh tế, uy tín ḍng họ nhà gái. Ngược lại khi gả chồng cho con gái, cha mẹ cô gái cũng đ̣i hỏi ở chàng rể về sức khỏe, siêng lao động, thông thạo việc nương rẫy .
    Xưa ở người H'mông c̣n tồn tại tục “cướp vợ”, một số nơi có tục “kéo vợ”, tức người con trai tổ chức kéo người con gái về nhà ḿnh trước khi cưới.
    Gia đ́nh người H'mông là loại h́nh gia đ́nh nhỏ phụ quyền. Quy mô mỗi gia đ́nh khoảng 6-8 người. Nhiều gia đ́nh gồm 2 hay 3 thế hệ cha-con- cháu sống chung trong một mái nhà, có kinh tế chung. Cá biệt có những gia đ́nh “tứ đại đồng đường”. Loại h́nh gia đ́nh lớn (gồm bố mẹ và 1-2 cặp vợ chồng anh em sống chung) c̣n tồn tại ở một số nơi nhưng không phổ biến. Những trường hợp này là do em trai chưa đủ điều kiện để ra riêng. Trong gia đ́nh, tính phụ quyền thể hiện tập trung nhất ở người cha; ông ta có quyền quyết định tất cả công việc trong nhà. Thông thường, ở người H'mông, con cái và vợ luôn phải phục tùng, nghe lời của người cha, người chồng. Người cha quyết định trong việc chi tiêu mua sắm, bán chác . và điều hành phân công lao động hàng ngày trong nhà. Khi có việc hệ trọng như tang ma, cưới xin . tuy có bàn bạc với vợ nhưng quyền quyết định chính vẫn thuộc về người chồng.
    Tính phụ quyền c̣n thể hiện trong ngôi nhà người H'mông, ở tục lệ, chỗ gần nơi thờ “ma nhà” khi ngồi ăn, duy nhất có chủ nhà mới được ngồi quay lưng vào; vợ, con cái không bao giờ được ngồi vào vị trí đó. Con cái tính theo ḍng cha. Tài sản của gia đ́nh như: ruộng, nương, các nông cụ, trâu, ḅ, ngựa, tiền bạc khi đem trao đổi, cầm cố, bán chác, ư kiến của chủ nhà là quyết định. Tài sản trong gia đ́nh chỉ chia cho con trai, không chia cho con gái. Thứ của hồi môn duy nhất của người con gái được mang về nhà chồng là váy áo và đồ trang sức.
    Việc phân công lao động trong gia đ́nh thường theo giới và tùy theo độ tuổi từng thành viên. Con trai lo việc nặng nhọc hơn: cày, bừa, chặt gỗ, đi săn, rèn, mộc . con gái: bếp núc, chăn gia súc, lấy củi, hái rau . Khi đến tuổi trưởng thành, con gái được tự do t́m hiểu, yêu đương. Mỗi thành viên trong gia đ́nh ngoài việc phải tuân thủ theo luật tục của ḍng họ và cộng đồng c̣n phải khuôn ḿnh trong gia pháp mà người đại diện cao nhất chính là người chồng, người cha - chủ gia đ́nh.
    Ḍng họ: Trong xă hội truyền thống của người H'mông có tồn tại khá rơ một loại h́nh tổ chức xă hội dựa trên quan hệ huyết thống đó là ḍng họ (xênh). Trước đây hầu như mỗi vùng hay trong làng đều có một ḍng họ vừa đông đúc vừa có thế lực nhất. Ngày nay hầu hết các họ người H'mông đếu sống xen kẽ với nhau và một làng thường có ít nhất là hai họ.
    Có hai phạm trù cố kết trong ḍng họ: ở phạm trù rộng gồm tất cả những người cùng họ cư trú ở khắp nơi. Người H'mông hay nhận nhau để biết cùng ḍng máu hay không, dấu hiệu nhận họ là cùng họ và cùng ma. Những người chỉ cùng họ “thùng xênh” mà không cùng ma “thùng đang” th́ không chết ở nhà nhau được, mặc dù có những kiêng kỵ như nhau.
    Ở phạm vi hẹp, một làng người H'mông thường có vài ḍng họ sinh sống, trong đó mỗi ḍng họ được xem như một đơn vị cộng đồng huyết thống theo hệ cha. Đây là những người “thùng xênh, thùng đang” (cùng họ cùng ma) được gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng phả hệ do một ông tổ sinh ra từ 3-4 đời.
    Ở người H'mông, khi muốn nhận anh em cùng tổ tiên, người ta hỏi nhau kỹ lưỡng về các điều kiêng kỵ, cách thức cúng ma, đặc biệt là nghi thức làm ma cho người chết như ma khô, ma ḅ . Mỗi họ đều kiêng ăn một số con vật hoặc bộ phận con vật như: Họ Giàng kiêng ăn tim, họ Lư kiêng lá lách, họ Thào kiêng dưa chuột . Cách cúng ma thường khác nhau về số lượng bát cúng, cách bầy bát, chia thịt, chỗ cúng: họ Vàng cúng 33 bát, họ Sùng bầy 13 bát, họ Mùa 19 bát. Mỗi họ có tên gọi riêng liên quan đến một số con vật, loại cây, đồ vật, màu sắc: Sùng (gấu), Mă (ngựa), Giàng (dê), Hờ (khỉ), Cư (trống), Thào (đào), Lù (xanh) . [1;67]. Các họ người Hmông có rất nhiều: Thào, Giàng, Vàng, Hảng, Vừ, Lẩu, Lỳ, Sổng, Hờ, Và, Cư, Mă, Phùng, Mùa . Những gia đ́nh cùng họ thường có xu thế cư trú cạnh nhau. Tuy nhiên, việc cư trú xen kẽ giữa các họ đến nay là phổ biến, v́ thế làng mang tính chất láng giềng nổi trội. Trong xă hội truyền thống ḍng họ thống nhất về kinh tế biểu hiện về quyền sở hữu, chiếm hữu đất đai. Sự thống nhất về tinh thần của ḍng họ biểu hiện ở lễ ma ḅ “nhu dạ”. Tất cả các thành viên ḍng họ phải có mặt trong lễ này kể cả phụ nữ đă đi lấy chồng. Lễ do trưởng họ chủ tŕ. Đây là lễ cúng báo hiếu ông bà, cha mẹ của con cháu. Khi cúng bày 3 bát, cho tổ tiên, cha mẹ, chú bác đă khuất. Sự gắn kết về tinh thần c̣n thể hiện ở lễ “tù xu”-lễ đuổi tà ma, cầu yên cho ḍng họ. Mỗi họ tổ chức vào những ngày nhất định trong năm, luân phiên từ gia đ́nh này sang gia đ́nh khác trong ḍng họ.
    Đứng đầu ḍng họ là trưởng họ gọi là “hố pâu” (gốc), “ua thâu” (cái đầu). Trưởng họ do con trai trưởng của ngành trưởng giữ chức và cha truyền con nối. Trưởng họ là người am hiểu phong tục ḍng họ, biết cúng, lắm lư lẽ và có uy tín. Một số nơi trưởng họ được xem như thầy căi lư “tráng kê” cho ḍng họ. Trưởng họ là người có phẩm chất trung thực, kinh nghiệm tổ chức lao động, được các ḍng họ khác kính nể. Tiếng nói của ông có trọng lượng, ông ta có nhiệm vụ duy tŕ sinh hoạt trong ḍng họ, đảm đang việc thờ cúng tổ tiên, bàn bạc cưới gả, triệu tập các cuộc họp khi họ có việc hệ trọng (tang ma, cưới xin, làm nhà mới, thừa kế, xích mích .), giải quyết bất ḥa giữa ḍng họ ḿnh với ḍng họ khác, dàn xếp tranh chấp đất đai, tài sản, xử lư các vi phạm luật tục, quyết định trong việc định cư . hay di chuyển của cả ḍng họ. Nói chung, người trưởng họ của người Hmông có vai tṛ rất quan trọng, mức độ uy tín của trưởng họ khác nhau. Những bậc cha, chú là người giám sát việc làm của trưởng họ. Nếu ông ta không hoàn thành nhiệm vụ th́ sẽ bị băi miễn. Ư kiến của trưởng họ có trọng lượng nhưng không thể đi lại quyền lợi chung của cả ḍng họ. Trưởng họ không được hưởng quyền lợi ǵ ngoài sự kính trọng của các thành viên. Ngoài trưởng họ c̣n có bà cô “nhẵng” (chị em gái của bố) cũng là người có vai tṛ quan trọng. Tuy đă thành ma nhà người khác nhưng bà ta vẫn có trách nhiệm với ḍng họ ḿnh, góp ư kiến trong cưới gả cháu gái, quyết định đồ sính lễ, thách cưới. Khi bố mẹ cháu mất, bà có thể thay mặt gia đ́nh bàn bạc với các bậc cha chú trong ḍng họ để làm ma. Nếu nghi thức làm ma muốn thay đổi chút ít phải được sự đồng ư của bà cô.
    Như vậy, người H'Mông ở Mù Cang Chải có nền kinh tế nương rẫy, du canh du cư, tự cung tự cấp, kinh tế mang tính chất biệt lập ở miền núi cao. Xă hội có sự phân hóa giai cấp, thường xuyên đấu tranh với âm mưu của chủ nghĩa Đại Hán, nên ư thức cộng đồng, nhất là cộng đồng ḍng họ, dân tộc luôn được đề cao Những đặc điểm này ảnh hưởng và chi phối đến đời sống văn hóa tinh thần của người H'Mông ở đây.

    Chương 2
    ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC HMÔNG Ở HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI

    2.1. Tín ngưỡng tôn giáo
    Trong xă hội truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo là một trong những thành tố quan trọng của văn hoá tinh thần, nó tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật và văn học dân gian. Tín ngưỡng, tôn giáo của người H'Mông ở Mù Cang Chải có nhiều nét tương đồng với các tín ngưỡng, tôn giáo của các tộc người khác. Sự khác biệt thường bộc lộ ở sự phát triển một số loại h́nh hoặc ít chịu ảnh hưởng của tam giáo như một số tộc người láng giềng như Dao, Tày, Nùng. Trong các h́nh thức tôn giáo truyền thống H'Mông, việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là Sa man giáo tương đối phát triển. Nhưng những h́nh thức tôn giáo sơ khai như vật linh, tô tem giáo, các loại ma thuật Vẫn tồn tại ở dạng tàn dư và đóng vai tṛ quan trọng. Tôn giáo tín ngưỡng đă hoà quyện với các tổ chức hội hè tạo nên những sắc thái, sự phong phú trong đời sống văn hoá tinh thần H'Mông.
    2.1.1. Thờ cúng tổ tiên, ma nhà và thần bản mệnh cộng đồng “giao”
    a. Thờ cúng tổ tiên và ma nhà.
    Thờ cúng tổ tiên là một h́nh thức tôn giáo quan trọng của người H'Mông. Sự thờ cúng tổ tiên thể hiện trong quan niệm, nghi lễ và các điều kiện kiêng kị, huyền thoại về tổ tiên.
    Thờ cúng tổ tiên “đó là thờ cũng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đă chết và trước hết là các h́nh thức gia đ́nh - thị tộc của sự thờ cúng đó, tức là ḷng tin rằng tổ tiên đă chết, che chở cho con cháu đang sống và những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đ́nh tiến hành để nhằm thờ phụng tổ tiên. [28; 312]
    Người Thái quan niệm tổ tiên chỉ là thế hệ cha của chủ nhà. Người Tày quan niệm tổ tiên gồm 4 đời (cha, ông, cụ, kỵ). Nhưng người H'Mông quan niệm tổ tiên là những người đă chết trong 3 đời trở lại (cha, ông, cụ). Quan niệm này thể hiện trong các bài khấn mời tổ tiên (cúng năm mới, cúng ma trâu ) chủ nhà hoặc thầy cúng đều gọi tên tuổi những người thuộc 3 thế hệ đă khuất trở về ăn tết với con cháu, phù hộ cho con cháu làm ăn. Trong một bản người H'Mông thường có vài ḍng họ, mỗi ḍng họ có một ông tổ cụ thể đă chết mà người già ở thế hệ cao nhất trong phả hệ c̣n nhớ được.
    Các thành viên trong ḍng họ gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng một phả hệ ḍng tam do một ông tổ sinh ra. Thông thường nếu tính từ thế hệ con lên đến ông tổ là 3 đời. Trong dịp làm ma ḅ (ma trâu) “nhu đa” tất cả các thành viên trong ḍng họ phải tới dự. Đồ cúng bày theo đúng quy cách của từng ḍng họ, theo số lượng cụ thể của mỗi ḍng họ, nhưng thông thường bát cúng thứ nhất mời tổ tiên, bát cúng thứ hai ṃi cha mẹ đă khuất, bát cúng thứ ba mời những người đă khuất cùng thế hệ cha mẹ, bát cúng thứ tư trở đi mời những người trong họ hàng, mời ma nhà, ma rừng, ma suối, ma núi Trong lễ cúng, ông trưởng họ thường kể về sự nghiệp của tổ tiên, các quy ước kiêng kị của ḍng họ. Mỗi lần cúng như vậy, h́nh ảnh của tổ tiên lại được khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi thành viên.
    Khác với người Việt, người Tày, bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị trí gian giữa, nhiều ḍng họ H'Mông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy h́nh chữ nhật kích thước 20 x 30cm gần nơi thờ “xử ca” ở trên bức vách hậu gian giữa. Một số ḍng họ như họ Vừ, họ Lầu, họ Và . Ở xă Nậm Khắt có lập bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ được đóng vào chính giữa gian cúng, cách mặt đất khoảng 1,2m đến 1,5m. Trang trí trên bàn thờ chỉ là mảnh giấy bản và cắm 3 ống hương thờ ông bà, bố mẹ, chú bác, những người anh em cùng thế hệ. Nơi đặt bàn thờ là nơi thiêng, chỉ có chủ gia đ́nh mới được làm chủ lễ cúng tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người H'Mông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh Đối với hồn các cha, ông, cụ . ở thế giới bên kia con cháu phải tổ chức các lễ cúng theo tục lệ tang ma: lễ tiễn đưa hồn, lễ sửa mồ mả, lễ ma khô Sau khi làm “nhu đa”: ma ḅ, ma trâu, con cháu chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới. Tổ tiên thuộc loại ma lành phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên nếu không thờ cúng cẩn thận, tổ tiên cũng có thể bắt phạt, làm cho con cháu ốm đau. Hoặc đôi khi tổ tiên đói c̣n về đ̣i trâu, lợn . Thế giới bên kia có một nơi dành cho tổ tiên ở. Nơi cư trú của tổ tiên cũng giống như nơi cư trú của con cháu ở dưới trần gian, cư trú theo ḍng họ.
    Trong niềm tin cổ xưa, người H'Mông c̣n quan niệm hồn của người chết c̣n đầu thai vào con cháu. Hồn của người ông thường đầu thai vào thế hệ cháu trong ḍng họ.
    Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người H'Mông c̣n tồn tại một hệ thống ma nhà với chức năng nhiệm vụ cụ thể, có lễ thức cúng bái riêng biệt.
    - “Xử ca” là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người H'Mông. “Xử ca” gắn liền với ư niệm giàu có, nhất là về tiền bạc. Nơi thờ “Xử ca” ở tấm ván hậu gian giữa nhà. Nơi thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm 3 (hoặc 9) lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng xử ca một lần vào đêm 30 tết. Đồ cúng là một con gà trống màu đỏ. Ông chủ nhà cắt tiết gà gần chết rồi thả gà trong nhà. Ông quan sát, khi gà quay đầu về hướng nào để đoán định việc làm ăn trong năm tới có phát đạt hay không. Nếu khi chết gà quay đầu về hướng bức tường thờ “Xử ca” hoặc phía buồng ông chủ nằm th́ năm đó gia đ́nh làm ăn phát đạt, nhưng nếu gà quay đầu về phía cửa th́ năm đó gia đ́nh gặp khó khăn, hao tốn tiền của.
    Ma cột chính: Cột chính là cột giữa của v́ kèo thứ 2 ngăn giữa gian đầu hồi bên phải với gian giữa. Cột chính là nơi thờ ma lợn “bùa đáng” cột tường trưng cho sự hưng thịnh của gia đ́nh. Các ḍng họ Ly họ Lầu ở miền tây lại coi cột chính là nơi thờ phụng tổ tiên. V́ hồn tổ tiên khi về với con cháu thường trú ngụ ở nơi giao nhau giữa xà ngang với cột chính. Cột chính là nơi linh thiêng của ngôi nhà, kiêng dựa cột không được treo áo quần, đồ dùng vào cột chính. Khi gia chủ sinh con trai, nhau thai sẽ chôn ở cột chính. Khi chết, thầy cúng phải chỉ đường cho hồn về nhận lại áo “nhau” ở chân cột chính mang về cho tổ tiên Có ḍng họ, khi buộc người chết lên cáng “ngựa” phải đặt người chết dựa đầu vào cột chính một ngày, một đêm sau đó mới đặt ở nơi khác. Cúng ma cột chính, theo quan niệm của người H'Mông c̣n nhằm tạ ơn những người xưa kia đă giúp người H'Mông qua hoạn nạn, để t́m chữ viết đă mất.
    - Ma cửa “X́a mềnh”: “x́a mềnh” có nhiệm vụ như người lính gác cửa, ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn các thành viên gia đ́nh bỏ đi. Khi nào súc vật chết v́ bệnh tật, hoặc bị hổ vồ là do ma cửa bị ngă. Do đó cần làm lễ nâng ma cửa dậy. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng vải đỏ dán trước cửa chính. Ma cửa thường được cúng vào dịp tết, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Lễ cũng là một con gà trống luộc. Có một số ḍng họ như họ Và, họ Vừ người H'Mông trắng thường nuôi một con gà ma (gà trống màu đỏ), gà ma được nhốt ở trong lồng treo sát vách buồng ông chủ. Khi cần báo mộng cho ông chủ, ma cửa sẽ nhập vào gà này để báo. Khi có điều xấu chủ nhà phải tổ chức lễ cúng ma cửa bằng lợn – gọi là lễ cúng lợn. Lễ vật là con lợn cái (khi lợn này c̣n bé đă cắt một nhúm lông đuôi đặt lên phía trên cửa ra vào). Cách cúng tương tự cúng ma lợn. Khi cúng đóng chặt cửa và chỉ có nam giới được cúng.
    - Ma buồng (đá trùng): Theo quan niệm của người H'Mông, ma buồng “đá trùng” liên quan tới việc chăm sóc bảo vệ sức khoẻ trẻ thơ, phát triển đàn gia súc. Khi một đôi vợ chồng ra ở riêng có con đầu ḷng và làm lễ đổi tên lót cho người bố, gia đ́nh đó mới đủ điều kiện thờ ma buồng.
    Gia đ́nh có trẻ nhỏ hàng năm đều làm lễ cúng ma buồng ít nhất một lần. Đồ cúng là con lợn cái nặng từ 6kg đến 10kg. Cúng ma buồng thường cúng vào buổi tối hoặc nửa đêm, gà gáy lần thứ nhất hay lần thứ hai (tuỳ theo từng ḍng họ). Khi cúng đóng chặt cửa, lợn mổ ngay trong nhà. Buổi cúng không cho người lạ tới dự. Ông chủ gia đ́nh pha thịt lợn luộc thành nhiều bát, mỗi bát gồm đủ các bộ phận của lợn như: đầu, tai, tim, lưỡi, lông, chân (số lượng bát bao nhiêu là tuỳ từng ḍng họ). Nước luộc thịt cho vào trong quả bầu khô, cuống cong theo h́nh dấu (?). Ông chủ gia đ́nh kính cẩn đọc bài cúng với nội dung yêu cầu ma buồng bảo vệ hồn (pĺ) trẻ nhỏ, phù hộ trẻ nhỏ trong gia đ́nh hay ăn chóng lớn, chăn nuôi được nhiều trâu, lợn cúng xong ông rót nước thịt trong quả bầu ra các chén nhỏ bằng ống nứa (số chén tương ứng với số bát và tuỳ theo từng ḍng họ) cho trẻ uống, với niềm tin trẻ sẽ được khoẻ mạnh sáng mắt. Số thịt cũng được chia cho các thành viên trong gia đ́nh ăn một bữa ở trong nhà kiêng không mang ra ngoài nhà. Cúng xong quả bầu cong và các chén bằng ống nứa được cất trên máu nhà phía giường ngủ của vợ chồng nhà chủ.
    - Ma bếp “đá kho trù”: ma bếp liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Do đó kiêng giẫm lên chân bếp ḷ, kiêng làm hư hại ḷng ḷ bằng đất, không được gơ và đánh vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không lấy tro trong bếp ḷ. Muốn nhấc chảo cám ra phải để một ḥn đá vào giữa bếp, không kiêng như vậy, gia súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị h́nh.
    - Ma bếp lửa ở gian giữa “hú sinh” là nơi tiêu diệt các ác ma, sau lễ gọi hồn người ta ném vào ḷ lửa những con sâu bọ - hồn bệnh tật vào bếp lửa hồng. Ma bếp lửa c̣n dễ gây ra ốm đau, bệnh tật.
    - Ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô: ma thường trú ngụ trên gác (phía trên bếp), nơi để thóc, ngô. Ma này có nhiệm vụ phù hộ cho được mùa (hoặc làm mất mùa) tuỳ theo thái độ của gia chủ. Con dâu và phụ nữ khác ḍng họ kiêng lên gác. Khi chuẩn bị thu hoạch phải cúng ma bảo vệ hồn lúa.
    Thờ tổ tiên là một h́nh thức tôn giáo chính thống của nhiều dân tộc ở Mù Cang Chải. Nhưng h́nh thức cũng như quan niệm thờ cúng tổ tiên của người H'Mông có những đặc điểm khác các dân tộc láng giềng.
    Qua việc t́m hiểu thờ cúng tổ tiên của các dân tộc Phù Lá, Tày, Dao, tác giả xây dựng ba tiêu chí để so sánh thờ cúng tổ tiên:
    + Quan niệm về tổ tiên gồm những ai, thuộc mấy đời.
    + Địa điểm thờ cúng đơn giản hay phức tạp
    + Thời gian cúng thường xuyên, định ḱ hay theo một nguyên tắc nào.
    Căn cứ vào ba tiêu chí trên, tác giả so sánh việc thờ cúng tổ tiên của người H'Mông so với người Phù Lá, người Tày và người Dao.
    [TABLE="align: center"]
    [TR]
    [TD]Tiêu chí[/TD]
    [TD]Người Phù Lá[/TD]
    [TD]Người HMông[/TD]
    [TD]Người Tày[/TD]
    [TD]Người Dao[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Quan niệm về tổ tiên[/TD]
    [TD]Bố mẹ và anh em trai của bố[/TD]
    [TD]Ba thế hệ (bố, ông, cụ)[/TD]
    [TD]Bốn thế hệ[/TD]
    [TD]Chin thế hệ[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Địa điểm thờ[/TD]
    [TD]Trổ ở cửa sổ gian trong[/TD]
    [TD]Không có[/TD]
    [TD]Đặt ở gian giữa[/TD]
    [TD]Đặt ở gian giữa[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Thời gian cúng[/TD]
    [TD]Cúng vào ngày lễ tết[/TD]
    [TD]Cúng vào ngày lễ tết[/TD]
    [TD]Cúng ngày rằm, mồng 1, tết.[/TD]
    [TD]Cúng ngày rằm, mồng 1, tết.[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    Như vậy, thờ cúng tổ tiên ở người H'Mông đă định h́nh, quan niệm tổ tiên đă mở rộng đến 3 đời - quan niệm này gần với quan niệm tổ tiên của dân tộc Dao, Tày. Nhưng điạ điểm thờ cúng của người H'Mông c̣n khá đơn giản, hầu hết các gia đ́nh H'Mông không lập bàn thờ cố định, không có ống hương tượng trưng cho thế hệ tổ tiên. Song vị trí nơi thờ đă ở gian giữa - nằm ở vị trí trang trọng giống người Việt, Tày, Dao. Tóm lại việc thờ cúng tổ tiên ở người H'Mông chưa quy định chặt chẽ như người Kinh, Tày, Dao nhưng cũng không thể hiện đơn giản như người Phù Lá. Tuy nhiên có một số ḍng họ ở Nậm Khắt do cư trú đan xen với người Tày, người Dao, việc lập bàn thờ ở gian giữa thờ cúng tổ tiên đă được h́nh thành.
    T́m hiểu lễ nghi, vị trí nơi thờ cúng tổ tiên ở người H'Mông hiện nay ta nhận thấy có ba h́nh thức:
    - Một số ḍng họ như họ Lầu, họ Lư ở đây quan niệm cột nhà chính là nơi linh hồn tổ tiên về trú ngụ. Các hồn này thường ở thế giới tổ tiên, thỉnh thoảng mới về thăm con cháu và trú ngụ lại cột nhà chính.
    - Đa số các ḍng họ người H'Mông quan niệm tổ tiên trú ngụ ở bức vách hậu gian giữa (gần nơi thờ xử ca, nơi dán giấy bản và cắm lông gà). Khi thờ cúng người H'Mông mới lập bàn bày mân cúng sát vách. Ngày thường không có bàn thờ riêng.
    - Một số ḍng họ ở phía tây của huyện đă lập bàn thờ ở giữa, ngay vách hậu, có cả ba ống hương (tượng trưng cho ba thế hệ được thờ cúng).
    Phải chăng các h́nh thức thờ cúng này phản ánh các giai đoạn h́nh thành bàn thờ tổ tiên của người H'Mông. Có thể giai đoạn đầu người H'Mông thờ tổ tiên ở cột chính sau đó chuyển sang thờ tổ tiên ở vách chính giữa nhà (gần nơi thờ cử xa). Và một số nơi tiếp thu phong tục của các dân tộc láng giềng: Tày, Hoa, Dao người H'Mông đă lập bàn thờ riêng thờ cúng tổ tiên.

    b. Thờ cúng thần cộng đồng làng “giao”
    Trong phạm vi làng “giao” hay liên làng, người H'Mông thờ cúng các thần thổ địa “thủ ti”. Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to (hoặc ḥn đá lớn) trong khu rừng cấm “lùng sán”. Cũng có nơi như ở Dế Xu Ph́nh, Lao Chải, Púng Luông thổ thần của “giao” chỉ là những ḥn đá to có h́nh thù khác lạ. Việc thờ cây, thờ đá là một hiện tượng phổ biến ở các cư dân Đông Nam Á. Tuy nhiên ở một số “giao” khác ở huyện như: Hồ Bốn, La Pán Tẩn các thần được thờ là ông Giàng Chỉn Hùng thủ lĩnh nghĩa quân chống giặc Pháp xâm lược. Một số thần khác được thờ ở đây lại là những người có công khai phá vùng đất mới, có công lập làng khi mất đi được dân làng suy tôn làm thần bảo mệnh. Các vị thần này thường trú ngụ trong một mái đá, hang đá hoặc một gốc cây to trong rừng cấm.
    Đồng bào quan niệm thần của “giao” chi phối cuộc sống của cộng đồng “giao”. Người dân trong “giao” khoẻ mạnh, được mùa, gia súc đông đàn là nhờ thần phù hộ. Ngược lại gia súc bị dịch bệnh, người bị tai nạn là do có người hành động vô lễ với các thần như: chặt cây trong rừng cấm, phá phách nơi thần ở Hàng năm vào ngày th́n của tháng hai (hoặc ngày 2 tháng 2), đại diện các gia đ́nh trong “giao” đến khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần và “Nào xồng”, lễ vật cúng là gà hoặc lợn. Người đứng dầu “giao” – “Lùng thầu” trịnh trọng cầu khấn thần linh phù hộ. Nội dung bài cúng vừa tỏ ḷng tôn kính thần nhưng vẫn thân mật và b́nh đẳng với thần:
    “Ta đem hai gà
    Vàng, hương cho thần linh
    . Ḿnh phải phù hộ cho ta người lớn, người bé không ốm đau” [22;2]
    Quan hệ người dân với thần như trong cộng đồng “giao”: b́nh đẳng, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây, thần cũng b́nh đẳng như một thành viên của cộng đồng. Do đó cộng đồng dâng lễ vật cho thần th́ thần phải có sức mạnh siêu phàn tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng. Do đó cộng đồng dâng lễ vật cho thần th́ phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo vệ cộng đồng. Người H'Mông không có vị thần của toàn dân tộc. Ông Chày, Bà Chày, Gầu á, Dầu Âu trong thần thoại đều là những anh hùng văn hoá. Tục thờ thần bảo mệnh của cả cộng đồng: trời đất tồn tại ở vùng người Việt, người Tày nhưng lại vắng bóng trong đời sống tâm linh của người H'Mông. Trong xă hội H'Mông, cộng đồng gia đ́nh, cộng đồng “giao” có được h́nh thức tôn giáo tương ứng là tổ tiên và thần bản mệnh của “giao”. C̣n cộng đồng vùng (liên làng), cộng đồng dân tộc không có thần bản mệnh.
    Ở người H'Mông, việc thờ cúng tổ tiên hay thần bản mệnh cộng đồng “giao” là h́nh thức tôn giáo cơ bản. Nhưng sự thờ cúng này rất ít chịu ảnh hưởng của tam giáo, không có những quy định phức tạp, chặt chẽ. Các quan niệm, lễ thức thờ cúng vẫn c̣n đơn giản, nhiều nét cổ sơ. Tổ tiên và thổ thần có chi phối đến đời sống tinh thần người H'Mông. Tổ tiên gần như bị hoà đồng với các ma nhà, nhiều khi vai tṛ của tổ tiên không được đề cao bằng “xử ca” hoặc ma cửa “x́a mềnh”. C̣n thổ thần lại có vai tṛ khá mờ nhạt, người H'Mông chỉ nhớ đến thần khi phải cầu xin che chở hoặc cúng thần ngày đầu năm. Khác với người Việt, người Tày các thần bản mệnh cộng đồng làng của người H'Mông chưa thực sự đóng vai tṛ to lớn trong đời sống tâm linh.
    2.1.2. Vật linh giáo
    Người H'Mông quan niệm một số loài trong thế giới động thực vật và con người đều có phần xác và phần hồn. Phần “xác” là thực thể tồn tại mà con người nh́n thấy được, c̣n phần “hồn” rất quan trọng chi phối phần “xác” nhưng con người không thể nh́n thấy. Người H'Mông quan niệm chỉ có người, súc vật là có hồn, nhưng các loài vật nhỏ bé như ruồi, muỗi không có hồn. Trái lại những thứ sâu bọ khác như kiến, giun, hoặc bướm lại có thể là những linh hồn đang chạy. Trong thế giới thực vật những cây trồng chủ yếu liên quan đến dời sống người H'Mông đều có hồn như ngô, lúa, lanh, thuốc phiện, các loại gỗ quư dùng làm nhà (cây làm cột chính, pơ mu lợp mái ). Hoặc những cây to um tùm ở trong rừng, những hang đá, vách đá cũng có hồn. Như vậy, bên cạnh con người, trong thế giới động vật và thực vật chỉ có những cây, con liên quan đến đời sống người H'Mông hoặc quen thuộc với người H'Mông mới có hồn. Loài vật càng đặc biệt, hồn càng đáng sợ. Hồn của con hổ là “pu đông” có sức mạnh siêu phàm hay quấy nhiễu đời sống của người. Hoặc những gốc cây to, mục h́nh thù ḱ dị đều có tinh, luôn bày những tṛ ma quái trêu chọc con người, cḥng ghẹo phụ nữ. Ḥn đá to, mỏm đá lạ đều là các vật có hồn đặc biệt, có khả năng chi phối đời sống của cộng đồng, dễ gây tai nạn cho người dân làm nương rẫy hoặc săn thú gần đó. Cho nên một số nơi người dân phải tổ chức thờ cúng các tinh linh này. Người H'Mông quan niệm người có 3 hồn.
    - Một hồn chính ở đầu (trong thóp đỉnh đầu). Ở trẻ em hồn rất yếu (thóp mềm) do đó phải kiêng không được xoa đầu trẻ em. Nếu ai nhỡ tay xoa đầu chúng để hồn hoảng sợ bỏ đi, phải nộp gà làm lễ cúng gọi hồn.
    - Hồn thứ hai ở rốn có nhiệm vụ cai quản thân thể và các bộ phận nội tạng. Hồn này rời khỏi xác sẽ gây ra những cơn đau bụng quằn quại. Ở người phụ nữ, hồn này c̣n yếu hơn của nam giới nên phụ nữ thường đau bụng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...