Thạc Sĩ So sánh văn hóa dân gian giữa dân tộc Việt và dân tộc Hàn

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    DẪN LUẬN

    1. Lý do chọn đề tài

    Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia đồng văn-đồng chủng trong khu vực Đông Á. Từ đầu thế kỷ XIII, Hoàng tử Đại Việt triều Lý là Lý Long Tường do một cơ duyên đã phiêu bạt tới bán đảo Triều Tiên, đất lành chim đậu đã định cư tại Hoa Sơn – Hàn Quốc, mở đầu cho mối quan hệ hữu nghị giữa 2 dân tộc. Trong các thế kỷ XVI – XVIII, sứ thần hai nước Đại Việt – Cao Ly cũng đã có những cuộc tao ngộ đầy ý nghĩa ở Bắc Kinh – kinh đô của các triều Minh, Thanh ở Trung Quốc, góp phần cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 nước. Đầu thế kỷ XX, trong những năm bôn ba hoạt động cách mạng ở hải ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dành một sự quan tâm tới phong trào giải phóng dân tộc ở Triều Tiên. Đặc biệt, từ năm 1992, khi 2 nước Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác – hữu nghị toàn diện trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục giữa 2 nước đã được nâng lên một tầm cao mới.

    Từ đó đến nay đã có khá nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, Hàn Quốc dành nhiều công sức cho việc tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa 2 dân tộc Việt, Hàn, một số công trình nghiên cứu bước đầu cũng đã được giới thiệu. Tiêu biểu là hai hội nghị khoa học tổ chức tại Hà Nội (19/12/1994) và tại Thành phố Hồ Chí Minh (8/2001) và sản phẩm là 2 tập kỷ yếu – Tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc [56] và Những vấn đề văn hóa, xã hội và ngôn ngữ Hàn Quốc [48]. Bên cạnh đó, một số ấn phẩm khoa học giới thiệu văn hóa Hàn Quốc của các nhà nghiên cứu cũng đã được biên dịch, giới thiệu bằng Viêt ngữ. Tiêu biểu là các công trình của Nguyễn Long Châu [10], Đặng Văn Lung [45], Lê Quang Thiêm [59].
    Tuy vậy, nhìn chung, trừ hiện tượng sa man giáo, giới nghiên cứu Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu vẫn tập trung vào những vấn đề văn hóa Hàn Quốc đương đại hay nhiều lắm cũng là những vấn đề văn hóa Hàn Quốc trung đại, còn mảng văn hóa dân gian Hàn Quốc dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Rõ ràng, đây là một khiếm khuyết cần được khỏa lấp, bởi như vậy sẽ không đem lại một nhận thức hoàn chỉnh về bức tranh văn hóa Hàn Quốc. Có một thực tế không thể phủ nhận, cũng tương tự như ở người Việt – hay nói rộng hơn là cả không ít quốc gia khác trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, văn hóa Hàn Quốc các thời trung đại và cận-hiện đại, đều đã bị phủ lên một “lớp sơn” văn hóa Hán và văn hóa Ấn Độ và về sau là văn hóa Âu – Mỹ. Lẽ đương nhiên, trong điều kiện như vậy, nhiều yếu tố văn hóa truyền thống sẽ bị nhạt nhòa, khúc xạ trước những yếu tố văn hóa ngoại sinh. Trong bối cảnh đó, chính văn hóa dân gian (và chỉ có văn hóa dân gian) mới là bộ phận ít chịu sự tác động của các luồng văn hóa ngoại sinh và thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa tộc người.

    Từ đó, việc đi sâu tìm hiểu những điểm tương đồng và dị biệt trong văn hóa dân gian giữa hai dân tộc Hàn, Việt sẽ góp phần soi sáng không ít những vấn đề khoa học liên quan tới văn hóa cổ truyền mỗi nước mà còn có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc nghiên cứu những hiện tượng văn hóa tương tự trong văn hóa cổ truyền của nhiều dân tộc trong khu vực Đông Á cũng như Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu này hẳn sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 dân tộc, và thông quá đó đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác – hữu nghị giữa Việt -Hàn ngày càng cĩ hiệu quả.

    Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề tài So sánh văn hóa dân gian giữa dân tộc Việt và dân tộc Hàn làm đề tài nghiên cứu trọng tâm của khoa Đông phương.

    2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

    2.1. Trong phạm vi hiểu biết hiện nay của chúng tôi, liên quan tới việc tìm hiểu văn hóa dân gian ở Việt tộc đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu là học giả Phan Kế Bính với công trình Việt Nam phong tục[8], Đào Duy Anh với tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương[1], Nguyễn Văn Huyên với chuyên khảo La civilisation annamite (Văn minh Việt Nam)[31], Toan Aùnh với các công trình Tín ngưỡng Việt Nam, Nếp cũ: Hội hè, đình đám,[2,3] Nguyễn Duy Hinh với các công trình – Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Một số bài viết về tôn giáo, Văn hóa tâm linh Việt Nam [28, 29, 29a], Trần Quốc Vượng với tập chuyên đề Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm[77], Trần Ngọc Thêm với tác phẩm – Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam[57], Viện văn hóa dân gian với công trình Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam [49], Vũ Ngọc Khánh với công trình Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam [36], Đinh Gia Khánh với công trình Văn học dân gian Việt Nam [33], Cơ sở Văn hóa Việt Nam của Huỳnh Công Bá [5], Đó là chưa kể tới hàng trăm bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội – nhân văn,

    2.2. Về phía văn hóa dân gian Hàn Quốc – do những khó khăn về ngoại ngữ, chúng tôi chỉ mới biết tới một số công trình giới thiệu tổng quan về văn hĩa Hàn Quốc, trong đĩ phần lớn là các ấn phẩm dịch thuật và ít hơn là một số nguyên tác Hàn tự. Tiêu biểu là các cuốn Văn hóa Hàn quốc – những điều bí ẩn của Joo Kang Hyun [81], Hàn Quốc văn hóa sử của Lee Min Sik và Lee Ji Won [84], Đại cương về văn hóa Hàn Quốc của Pac Young Soon [86], Tín ngưỡng dân gian trong phong tục Hàn Quốc của Choe Jun Sik [78], Dân tộc và dịng họ của Hàn Quốc của Hội so sánh dân tộc (Hàn Quốc) [80], Tín ngưỡng dịng họ của Hàn Quốc (khu vực miền Trung nước Hàn) của Kim Jong Dae [82], Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc của Nguyễn Long Châu, Tiếp cận văn hóa Hàn Quốc của Đặng Văn Lung, Khái niệm văn hóa, văn minh và văn hóa truyền thống Hàn của Lê Quang Thiêm, Korea – xưa và nay của Ki-baik Lee[37], Lịch sử Hàn Quốc của Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học của Đại học Quốc gia Seoul và Đại học Quốc gia Hà Nội cùng biên soạn [7], Truyện cổ Hàn Quốc do Trần Hữu Kham và Ahn Kyong Hwam sưu tầm và biên dịch [72], Xã hội Hàn Quốc qua một số truyện cổ tích tiêu biểu của CN. Vũ Duy Hưng & NCS. Nguyễn Hùng Vũ [44], Nghi lễ cưới truyền thống ở người Hàn Quốc của Trần Mạnh Cát [9], .

    2.3. Tuy nhiên, việc so sánh văn hóa dân gian Hàn Quốc với văn hóa dân gian ở người Việt - theo hiểu biết của chúng tôi hiện nay, là vẫn còn khá mới mẻ với một tập chuyên luận mỏng của TS. Jeon Hye Kyung (Toàn Huệ Khanh) – Nghiên cứu so sánh truyện cổ Hàn Quốc và Việt Nam (thông qua tìm hiểu sự tích động vật) [41] cũng như một vài báo cáo tại hội nghị khoa học “Những vấn đề văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc”(1995), được công bố trong tập kỷ yếu Tương đồng văn hóa Hàn Quốc - Việt Nam“ như: Vài nét tương đồng trong truyện cổ Đại Hàn và Việt Nam của CN Đặng Thiếu Ngân & GS. Đinh Gia Khánh, Về mối quan hệ loại hình giữa văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc của Lê Chí Quế, Vùng văn hóa Đông Á và sự tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc của Trần Ngọc Vương, Văn hóa lễ hội truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc của Nguyễn Thị Huế, Vài nét gặp gỡ giữa truyện dân gian Hàn Quốc và Việt Nam của Nguyễn Trường Lịch. Trong tập kỷ yếu “Những vấn đề văn hóa, xã hội và ngôn ngữ Hàn Quốc” trên cơ sở hội nghị khoa học có cùng chủ đề được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh (8/2001) cũng có bài Vài nét về nsự tương đồng những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc của Mai Ngọc Chừ. Ngoài ra, liên quan tới đề tài này, trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á chỉ có một bài của Lý Xuân Chung – Đôi nét về sự tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc [15].

    2.4. Nhìn chung, các tác giả nói trên mới chủ yếu đề cập tới những nét tương đồng trong văn hóa giữa 2 dân tộc ở thời trung đại, cận đại và hiện đại, lúc mà nền văn hóa dân tộc đã được phủ lên những lớp sơn văn hóa ngoại sinh từ Trung Hoa, Ấn Độ và các nước Âu – Mỹ, còn lĩnh vực văn hóa dân gian, chỉ mới tiến hành so sánh ở một vài chi tiết như tục chôn tượng người chết có ở người Hàn cổ nhưng không bắt gặp ở người Việt cổ, các mô tif trong truyện cổ dân gian có nhiều điểm tương đồng (mô típ chim tu hú, đa đa, chim quốc cho tới các mô tif “lọ lem”/ “gì ghẻ-con chồng”, “bọc trứng đẻ ra người”) hay các chuyện Nông Pu và Hưng Pu (Hàn) với chuyện Cây khế (Việt), chuyện Loại hoa kỳ lạ (Việt) với Kén rể bằng trứng gà (Hàn), .
    Về phần mình, một thành viên trong nhĩm đề tài của chúng tơi – CN. Lưu Thị Hồng Việt, đã cơng bố một luận văn Thạc sỹ Ngữ văn với đề tài: So sánh truyện cổ tích Việt – Hàn. Đề tài đã được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn Thạc sỹ Trường Đại học Đà Lạt tháng 12/2007 và được chấm loại giỏi [74. Bên cạnh đĩ, trong quá trình triển khai đề tài, Chủ nhiệm đề tài – PGS.TS. Cao Thế Trình, cũng đã cơng bố trên một số tạp chí khoa học chuyên ngành một số bài báo khoa học của mình. Đĩ là các bài – Vài phương diện trong tục cúng tế tổ tiên ở người Hàn (qua đối sánh với tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt) trên Tạp chí Dân tộc học số 5/2008 và Tìm hiểu tín ngưỡng phồn thực ở người Hàn trên Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á số 1/2009 [69, 70], trong đĩ, bài Vài phương diện trong tục cúng tế tổ tiên ở người Hàn (qua đối sánh với tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt) được chọn là 1 trong 5 hay nhất của Tạp chí Dân tộc học năm 2008 [54a,130; 63a,131]

    2.5. Tinh thần chung của các bài viết nêu trên là tìm sự giống nhau mà ít quan tâm tới sự khác nhau. Phương pháp tiếp cận chủ đạo chủ yếu vẫn từ lĩnh vực Văn học của các nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học, mà hầu như ít có sự tham gia của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác, nhất là các lĩnh vực Folklore, Nhân học / Dân tộc học, Rõ ràng, vẫn rất còn nhiều khoảng trống trong việc tìm hiểu những tương đồng và dị biệt trong văn hóa Việt, Hàn cần được tiếp tục làm sáng tỏ.

    3. Mục tiêu của đề tài

    Mặc dù tiêu đề nêu ra có một nội hàm rất rộng, thế nhưng, trong khả năng hữu hạn của mình, trước mắt chúng tôi chỉ tập trung vào những điểm tương đồng và dị biệt nổi trội trong các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể giữa 2 dân tộc Việt – Hàn, nhất là những nét giống nhau, khác nhau trong tín ngưỡng dân gian giữa 2 dân tộc Hàn, Việt, nhằm góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 dân tộc và thông quá đó đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác – hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc lên một bước mới, mà trước mắt là cung cấp thêm một nguồn tư liệu bổ ích làm tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên ngành Hàn Quốc học cũng như những ai có quan tâm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của một ngành đào tạo còn khá mới mẻ ở Việt Nam.

    4. Các cách tiếp cận, phương pháp và phạm vi nghiên cứu của đề tài

    Do đặc thù của đối tượng là so sánh những điểm tương đồng và dị biệt trong văn hóa dân gian giữa 2 dân tộc Hàn, Việt, nên phương pháp tiếp cận chủ yếu của chúng tôi là phương pháp liên ngành trên cơ sở khai thác thế mạnh của các phương pháp nghiên cứu Văn học dân gian, Dân tộc học và nhất là Folklore.
    Ngoài ra, trong phạm vi có thể được chúng tôi cũng tranh thủ tối đa phương pháp điền dã nhân các chuyến thực tập ngắn hạn của các giảng viên trong khoa và phỏng vấn các giảng viên tình nguyện từ Đại Hàn dân quốc tại Đại học Đà Lạt, nhất là tham khảo những nhận xét, đánh giá từ GS, TS. Văn học Oh Jong Ho (Ngô Tông Hạo) – hiện đang tham gia giảng dạy tiếng Hàn tại khoa Đông phương học.
    Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu đề cập tới lĩnh vực văn hóa dân gian chưa hoặc ít bị pha tạp bởi các yếu tố văn hóa ngoại sinh trong quá trình giao lưu-tiếp xúc với các nền văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ (thơiø trung đại) và văn hóa Âu – Mỹ (thời cận-hiện đại).

    5. Đĩng gĩp của đề tài

    Như đã nói ở trên, ngoại trừ việc so sánh sự tương đồng trong một số sự tích động vật trong truyện cổ dân gian Hàn, Việt của Jeon Hye Kyung, vài so sánh về mô tif “lọ lem”, “người sinh ra từ bọc trứng” trong huyền thoạt Việt, Hàn của Lê Chí Quế, các chuyện “nhân tình – thế thái” như mô tíf kén rể dựa trên tiêu chí trung thực, anh tham – em hiền với hướng tiếp cận chủ yếu từ giác độ Văn học – Nghệ thuật, đề tài chúng tôi là một cố gắng mới của tập thể giảng viên khoa Đông phương học – Trường Đại học Đà Lạt. Chúng tôi không có tham vọng giải quyết đầy đủ mọi vấn đề liên quan tới nội dung của đề tài, nhưng với việc mở rộng các hướng tiếp cận mới (Nhân học/Dân tộc học, Folklore, , chí ít cũng là sự tập hợp tư liệu, bước đầu tìm tòi, khám phá,“khai quật” những gì còn tiềm ẩn, ít thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong văn hóa cổ truyền Hàn Quốc và những điểm tương đồng, dị biệt với văn hóa dân gian Việt. Hoàn toàn có thể khẳng định, việc triển khai nghiên cứu và những kết quả bước đầu có thể còn rất khiêm tốn của đề tài, là một đóng góp mới của chúng tôi.

    6. Bố cục của đề tài

    Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Phụ lục, báo cáo của chúng tôi gồm 2 chương chính:
    Chương I: Những điểm tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực văn hóa vật thể (tangible) giữa 2 dân tộc Hàn - Việt với các tiểu mục về sự tương đồng và dị biệt trên các phương diện văn hĩa đảm bảo đời sống, văn hĩa ẩm thực, trang phục.
    Chương II: Những điểm tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực văn hóa phi vật thể (intangible) giữa 2 dân tộc Hàn - Việt với các tiểu mục về tương đồng và dị biệt trên các lĩnh vực văn học dân gian, dân ca, tín ngưỡng.




    MỤC LỤC

    Dẫn luận . 01
    1. Lý do chọn đề tài . 01
    2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 02
    3. Mục tiêu của đề tài 04
    4. Cách tiếp cận, các phương pháp và phạm vi nghiên cứu 04
    5. Đĩng gĩp của đề tài . 05
    6. Bố cục của đề tài . 05
    Chương 1. Những điểm tương đồng và dị biệt trong văn hĩa
    vật thể (tangible) giữa dân tộc Việt và dân tộc Hàn 06
    1.1. Những điểm tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực văn hĩa
    đảm bảo đời sống . 06
    1.2. Những điểm tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực văn hĩa
    vật thể (ẩm thực, trang phục, nhà cửa) . 17
    Chương 2. Những điểm tương đồng và dị biệt trong văn
    hĩa phi vật thể (intangible) giữa 2 dân tộc
    Hàn - Việt . 31
    2.1. Những điểm tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực văn học
    nghệ thuật giữa 2 dân tộc Hàn, Việt . . 31
    2.2. Những điểm tương đồng và dị biệt trong tín ngưỡng dân
    gian giữa 2 dân tộc Hàn, Việt . . 46
    2.3. Những điểm tương đồng và dị biệt trong lễ hội dân gian
    giữa 2 dân tộc Hàn, Việt . . 75
    Kết luận . 79
    Tài liệu tham khảo . 81
    Phụ lục: Các bài viết liên quan tới đề tài đã cơng bố . 89
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...