Thạc Sĩ So sánh hiệu lực điều trị sốt rét do plasmodium falciparum chưa biến chứng của artesunate

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI CẢM ƠN
    Với tất cả tấm lòng trân trọng nhất, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:
    - Ban giám hiệu trường Đại học Tây Nguyên, Ban giám đốc Viện Sốt rét-Ký
    sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, Phòng sau Đại học Trường Đại học Tây
    Nguyên, đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập và
    hoàn thành luận văn.
    - TS Triệu Nguyên Trung, Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn
    trùng Quy Nhơn là người thầy thuốc nhân dân luôn tâm huyết, quan tâm đến
    học viên và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
    - PGS TS Nguyễn Xuân Thao, PGS TS Trần Xuân Mai, TS Phan Văn Trọng
    đã đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn.
    - Tập thể các Bác sỹ, cán bộ công nhân viên Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn
    trùng Quy Nhơn cùng toàn thể bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã động viện,
    tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận
    văn.
    Tác giả
    Trần Tuấn Bạch Vân 5
    MỤC LỤC Trang
    Trang bìa
    Trang phủ bìa
    Lời cam đoan i
    Lời cảm ơn ii
    Mục lục iii
    Danh mục chữ viết tắt và các ký hiệu
    Danh mục bảng, biểu đồ và hình
    Đặt vấn đề 1
    Chương 1: Tổng quan tài liệu 4
    1.1. Tình hình kháng thuốc SR và hiệu lực thuốc điều trị trên thế giới
    1.2. Tình hình kháng thuốc SR và hiệu lực thuốc điều trị ở Việt Nam
    1.3. Nguyên nhân SR kháng thuốc và những khó khăn tồn tại trong kiểm soát KSTSR kháng
    thuốc
    1.4. Cơ sở đặt vấn đề nghiên cứu trong luận văn Cao học
    Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 23
    2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
    2.2. Đối tượng nghiên cứu
    2.3. Phương pháp nghiên cứu
    2.4. Kỹ thuật nghiên cứu
    2.5. Đánh giá độ an toàn và tác dụng không mong muốn của thuốc
    2.6. Phân tích và xử lý số liệu
    2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
    Chương 3: Kết quả nghiên cứu 35
    3.1. Hiệu lực Artesunate đơn trị liệu sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng
    3.2. Hiệu lực của thuốc phối hợp DP sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng
    3.3.
    3.4
    So sánh hiệu lực điều trị sốt rét do P.falciparum của Artesunate đơn trị liệu và thuốc phối
    hợp Dihydroartemisinine + Piperaquine.
    Độ an toàn và tác dụng phụ của Artesunate đơn trị liệu và thuốc phối hợp
    Dihydroartemisinine + Piperaquine.
    Chương 4: Bàn luận 49
    4.1. Đáp ứng thuốc của KRTSR ở các vùng kháng thuốc
    4.2. Hiệu quả điều trị của các phác đồ thuốc sốt rét tại vùng kháng thuốc
    4.3. Độ an toàn và tác dụng không mong muốn của các thuốc điều trị sốt rét
    Kết luận 65
    1.1. Hiệu lực Artesunate đơn trị liệu sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng
    1.2. Hiệu lực của thuốc phối hợp D +P điều trị sốt rét do P.falciparum chưa biến chứng
    1.3. Độ an toàn và tác dụng phụ của thuốc điều trị sốt rét
    Kiến nghị 67
    Tài liệu tham khảo: tiếng Việt và tiếng Anh
    Phụ lục 6
    DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT & CÁC KÝ HIỆU
    ACPR : Adequate Clinical, Parasitological Response_ Đáp ứng lâm sàng và
    ký sinh trùng đầy đủ
    ACTs : Artemisinine-based combination therapy
    AEs : Adverse events_Tác dụng phụ
    CRFs : Case Record Forms_ Các mẫu ghi nhận dữ liệu nghiên cứu
    CTM : Công thức máu toàn phần.
    CTPCSRQG : Chương trình Phòng chống sốt rét Quốc gia
    CV8 : China Việt Nam-8
    DP : Dihydroartemisinine + Piperaquine
    ETF : Early Treatment Failure_ Thất bại điều trị sớm
    FCT : Fever Clearance Time_Thời gian cắt sốt
    IC 50 , IC 90 , IC 99 : Inhibitory concentration_Nồng độ ức chế
    KST : Ký sinh trùng
    KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét
    LCF : Late Clinical Failure_Thất bại lâm sàng muộn
    LPF : Late Parasitological Failure_Thất bại ký sinh trùng muộn
    MIC : Minimum Inhibitor Concentration_Nồng độ ức chế tối thiểu
    PCT : Parasite Clearance Time_Thời gian cắt / sạch ký sinh trùng
    PC : Parasitological cure_Sạch ký sinh trùng sốt rét
    PCR : Polymerase Chain Reaction_Phản ứng chuỗi trùng hợp
    P.falciparum : Plasmodium falciparum
    RR : Recrudescence rate_ Tỷ lệ tái phát sớm
    SAEs : Serious adverse events_ Tác dụng phụ nghiêm trọng
    SRLH : Sốt rét lưu hành
    TF : Treatment failure_ Thất bại điều trị (chung)
    TSR : Thuốc sốt rét
    WHO : The World Health Organisation_Tổ chức Y tế thế giới 7
    DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
    Trang
    Hình 2.1. Địa điểm nghiên cứu 25
    Bảng 2.1. Liều lượng thuốc Dihydroartemisinine trong nghiên cứu 26
    Bảng 2.2. Bảng phân loại đánh giá hiệu lực của WHO (2005, 2007) 30
    Bảng 3.1. Đặc điểm bệnh nhân điều trị Artesunate trước nghiên cứu 35
    Bảng 3.2 Đáp ứng của P.falciparum với Artesunate 7 ngày 36
    Biểu đồ 3.1 Đáp ứng của P.falciparum với Artesunate 7 ngày 36
    Bảng 3.3 Thời gian cắt ký sinh trùng của Artesunate sau mỗi 12 giờ 37
    Biểu đồ 3.2 Thời gian cắt ký sinh trùng của Artesunate sau mỗi 12 giờ 38
    Bảng 3.4 Thời gian cắt sốt (FCT) của Artesunate sau mỗi 12 giờ 38
    Biểu đồ 3.3 Thời gian cắt sốt (FCT) của Artesunate sau mỗi 12 giờ 39
    Bảng 3.5. Đặc điểm bệnh nhân điều trị DP trước nghiên cứu 40
    Bảng 3.6 Đáp ứng của P.falciparum với DP 41
    Biểu đồ 3.4 Đáp ứng của P.falciparum với DP 41
    Bảng 3.7. Thời gian cắt ký sinh trùng (PCT) của D + P sau mỗi 12 giờ 42
    Biểu đồ 3.5 Thời gian cắt ký sinh trùng (PCT) của D + P sau mỗi 12 giờ 42
    Bảng 3.8. Thời gian cắt sốt (FCT) của D + P sau mỗi 12 giờ 43
    Biểu đồ 3.6 Thời gian cắt sốt (FCT) của D + P sau mỗi 12 giờ 43
    Bảng 3.9. So sánh hiệu lực điều trị sốt rét do P.falciparrum của
    Artesunate đơn trị liệu và thuốc phối hợp DP
    44
    Biểu đồ 3.7 So sánh tỷ lệ khỏi, thất bại điều trị sớm, thất bại điều trị muộn
    của Artesunate đơn trị liệu và thuốc phối hợp DP
    45
    Biểu đồ 3.8 So sánh thời gian cắt và thời gian sạch ký sinh trùng của
    Artesunate đơn trị liệu và thuốc phối hợp DP
    45
    Bảng 3.10. Thông số huyết học và sinh hóa máu trước và sau khi điều trị
    Dihydroartemisinine + Piperaquine
    46
    Bảng 3.11. Tác dụng không mong muốn của Artesunate và thuốc phối hợp
    Dihydroartemisinine + Piperaquine trong quá trình điều trị
    47
    Biểu đồ 3.9 So sánh độ không an toàn và tác dụng không mong muốn của
    Artesunate và thuốc phối hợp Dihydroartemisinine
    +Piperaquine trong quá trình điều trị
    48 8
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Bệnh sốt rét cho đến nay vẫn là một vấn đề y tế công cộng và là mối
    hiểm họa đe dọa tính mạng cộng đồng tại nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt
    đới, đặc biệt là các nước châu Phi [17], [20], [32]. Ước tính hàng năm có
    khoảng 350-500 triệu ca mắc mới và hơn một triệu ca tử vong do sốt rét trên
    phạm vi toàn cầu, tập trung phần lớn ở trẻ em nhỏ và phụ nữ mang thai.
    Thành quả của chương trình phòng chống sốt rét (PCSR) đạt được
    không thể không kể đến hiệu quả thuốc sốt rét, giám sát thường quy và chặt
    chẽ tình hình kháng thuốc để trên cơ sở đó đề xuất các phác đồ điều trị sốt rét
    có hiệu quả và quản lý ca bệnh kịp thời là một trong những điểm chính yếu
    làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong [11], [1], [2], đồng thời giúp Bộ Y
    tế điều chỉnh chính sách thuốc quốc gia phù hợp với từng giai đoạn và cung
    cấp các thuốc kháng sốt rét có hiệu lực cao. Từ đó, nhu cầu chiến lược đòi hỏi
    chương trình PCSR mỗi quốc gia phải có quy trình thường quy đánh giá sự
    đáp ứng của ký sinh trùng sốt rét với các thuốc sốt rét hiện dùng và nghiên
    cứu thử nghiệm thuốc sốt rét mới, cung cấp những thông tin cần thiết về hiệu
    lực thuốc cũng như dự báo kháng thuốc để chỉ đạo biện pháp phòng chống sốt
    rét có hiệu quả.
    Tình trạng ký sinh trùng sốt rét P. falciparum kháng thuốc lan tràn
    nghiêm trọng trên thế giới và khu vực Đông Nam Á là một khó khăn lớn cho
    việc lựa chọn các thuốc điều trị sốt rét [31], [32], [33]. Ở Việt Nam P.
    falciparum kháng cao với Chloroquine, Fansidar, Mefloquine và giảm đáp
    ứng với nhiều loại thuốc chống sốt rét hiện dùng [2], [3], [10]; trong đó tỷ lệ
    thất bại lâm sàng và ký sinh trùng sốt rét cao hơn 70-90%. Chưa có thuốc sốt
    rét hiệu lực cao nào đồng thời diệt thể vô tính (a***ual) và diệt giao bào
    (gametocyte), việc tìm ra một loại thuốc sốt rét có hiệu quả điều trị tốt và 9
    khắc phục tình trạng đa kháng thuốc của P. falciparum là hết sức cần thiết và
    cấp bách. Từ năm 1990, thuốc chống sốt rét Artemisinine và dẫn chất
    Artesunate được tiến hành thử nhiệm lâm sàng và chính thức đưa vào sử dụng
    rộng rãi trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét ở nước ta đã có vai
    trò quan trọng trong việc hạ thấp tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong do sốt rét. Mặc dù
    với liệu trình 5 ngày hoặc 7 ngày, tỷ lệ khỏi bệnh do sốt rét P. falciparum đến
    80-90%, nhưng nhược điểm lớn nhất của Artemisinine/Artesunate đơn trị liệu
    là tỷ lệ tái phát sớm quá cao (35-50%) [13], [14], hoặc 7-50% [35], [36]; để
    khắc phục nhược điểm này nhiều phác đồ phối hợp có gốc Artemisinine
    (ACTs) đã được nghiên cứu và sử dụng ở nước ta như CV8
    (Dihydroartemisinine + Piperaquine + Primaquine + Trimethoprim),
    Artekin/Arterakin (Dihydroartemisinine + Piperaquine) và Artequick
    (Artemisinine + Piperaquine).
    Vấn đề đánh giá đáp ứng của P. falciparum với một số thuốc sốt rét hiện
    dùng và thử nghiệm thuốc sốt rét mới là một yêu cầu cấp thiết và thường quy,
    nhất là theo dõi đáp ứng chủng P. falciparum với thuốc sốt rét tại một số điểm
    thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có kháng cao với Chloroquine. Hiện nay ở
    khu vực miền Trung-Tây Nguyên mới bắt đầu thực hiện điểm nghiên cứu
    theo dõi liên tục (sentinel site) về P. falciparum kháng Chloroquine sau thời
    gian dài hạn chế sử dụng và hiệu lực các phác đồ điều trị sốt rét. Do đó một
    nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá hiệu quả và tính dung nạp thuốc
    Artesunate đơn trị liệu và phối hợp thuốc Dihydroartemisinine + Piperaquine
    (Artekin/Arterakin) trên bệnh nhân sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng
    là hết sức quan trọng, nhận định thực chất diễn biến kháng thuốc của chủng
    P. falciparum và đề xuất các phác đồ điều trị sốt rét phù hợp với thực tế, làm
    cơ sở cho việc xây dựng tầm nhìn chiến lược về chính sách thuốc sốt rét ở
    nước ta. 10
    Trên cơ sở đó, Đề tài “So sánh hiệu lực điều trị sốt rét do Plasmodium
    falciparum chưa biến chứng của Artesunate và thuốc phối hợp
    Dihydroartemisinine + Piperaquine ở một vùng kháng thuốc” nhằm đạt
    được các mục tiêu:
    1. So sánh hiệu lực của Artesunate và thuốc phối hợp Dihydroartemisinine +
    Piperaquine điều trị sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng.
    2. Độ an toàn và tác dụng không mong muốn của Artesunate đơn trị liệu và
    viên phối hợp Dihydroartemisinine + Piperaquine điều trị bệnh nhân sốt
    rét Plasmodium falciparum chưa biến chứng. 11
    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    Sốt rét hiện nay vẫn còn là một bệnh phổ biến và có mức lưu hành
    nặng, tỷ lệ mắc và tử vong cao ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực
    Tiểu vùng sông Mê Kông. Hàng năm sốt rét đã gây mắc và tử vong đến hàng
    triệu người, trong đó đặc biệt là châu Phi và khu vực Đông Nam Á; bệnh sốt
    rét cũng là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong, ảnh hưởng đến
    sức khỏe và phát triển kinh tế cho cộng đồng dân các vùng miền núi và cao
    nguyên Việt Nam [17], [29].
    Mặc dù những năm gần đây tình hình sốt rét có xu hướng giảm thấp,
    nhưng khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn phải đối mặt với thách thức và
    khó khăn do đặc điểm sốt rét phức tạp: vector truyền bệnh chính (muỗi An.
    minimus, An. dirus) còn tồn tại, P. falciparum chiếm trên 80% so với cơ cấu
    chủng loại ký sinh trùng sốt rét, di biến động dân cư lớn (di cư tự do, đi rừng,
    ngủ rẫy, giao lưu biên giới) nên khó có biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu
    quả; trong đó phải kể đến tình trạng đa kháng thuốc sốt rét đang lan rộng tại
    các vùng trọng điểm sốt rét, dẫn đến bệnh sốt rét diễn tiến nặng, tái phát
    nhiều, tỷ lệ chuyển sốt rét ác tính và tử vong sốt rét cao hơn [6], [7], [10],
    [11].
    1.1. Tình hình kháng thuốc sốt rét và hiệu lực thuốc điều trị chống
    kháng trên thế giới
    1.1.1. Tình hình kháng thuốc sốt rét
    Lịch sử kháng thuốc sốt rét đã cho chúng ta thấy bức tranh toàn cảnh về
    tình hình và quy mô P. falciparum kháng thuốc trên thế giới, các thông tin cập
    nhật về nghiên cứu đánh giá hiệu lực thuốc sốt rét toàn cầu của Tổ chức y tế 12
    thế giới (WHO) cũng chứng minh rằng dùng thuốc chống sốt rét đơn trị liệu
    trong phạm vi rộng và thời gian dài là một trong những nguyên nhân làm
    Plasmodium falciparum phát triển kháng với tất cả các loại thuốc sốt rét [31],
    [32]. Một số thuốc sốt rét tổng hợp vừa mới ra đời đã xuất hiện kháng ngay
    sau đó chưa đầy một năm (Fansidar-sulfadoxine/pyrimethamine ra đời năm
    1967 và cũng trong năm đó xuất hiện kháng; Atovaquone ra đời và xuất hiện
    kháng năm 1996; Proguanil trong năm 1949) hoặc có loại thuốc sau khi giới
    thiệu chỉ 5-7 năm (Chloroquine ra đời 1945 và xuất hiện kháng đầu tiên năm
    1957; Mefloquine ra đời 1977 và xuất hiện kháng 1982); tuy nhiên với các
    thuốc sốt rét có nguồn gốc thiên nhiên như quinine ra đời khá lâu (1632)
    nhưng xuất hiện quá trình phát triển kháng rất chậm (mãi đến năm 1910),
    Artemisinine và dẫn suất ra đời vào những năm 1990, liệu có cùng số phận
    với Quinine và các thuốc sốt rét khác [13], [14], [16], [24].
    Năm 1945, Chloroquin chính thức được đưa vào sử dụng điều trị sốt rét
    trên thế giới thì năm 1957, được thông báo kháng tại Venezuela (Moore và cs,
    1961), sau đó tại Thái Lan lần đầu tiên phát hiện ca sốt rét P. falciparum
    kháng Chloroquin tại biên giới Cambodia và Thái Lan (Harinasuta và cs,
    1961); tiếp theo đó, P. falciparum kháng Chloroquin cũng được phát hiện
    (1959) ở biên giới Colombia và Venezuela (Peters và cs.,1960); trường hợp
    đầu tiên phát hiện (1961) bệnh nhân sốt rét P.falciparum ở Việt Nam kháng
    với Chloroquine tại Nha Trang (Powell, Brewer và Alving.,1963); từ đó P.
    falciparum tiếp tục kháng Chloroquin ở mức độ cao và trên diện rộng ở hầu
    hết các quốc gia có sốt rét lưu hành trên thế giới; do đó thuốc này nhanh
    chóng bị loại khỏi danh mục thuốc thiết yếu cũng như chính sách thuốc quốc
    gia trong điều trị sốt rét do P. falciparum [32]. Trong vòng 20 năm, P.
    falciparum kháng Chloroquin đã lan ra nhiều vùng trên lãnh thổ Thái Lan và
    các nước láng giềng Cambodia, Lào, Việt Nam; tới năm 1978 xuất hiện kháng 13
    ở Kenya, Tanzania, Madagasca (1980); Angola, Rwanda (1984), Cameroon
    (1985), Nigeria (1987) [17], [18, [19], [21].
    Những báo cáo về kháng Quinine được báo cáo ở miền Tây Thái Lan là
    10% với mức độ kháng R I , sau đó một số báo cáo kháng thuốc Quinine cũng
    được báo cáo tại các quốc gia châu Phi, châu Á; đặc biệt thông báo của WHO
    năm 1987 cho biết P. falciparum đã kháng với Quinine ở nhiều vùng khu vực
    Đông Nam Á, Nam Mỹ, châu Phi (WHO, 1994) [30], [33].
    Cơ chế phân tử kháng-nhậy của P. falciparum với Chloroquine cũng đã
    được đề cập chi tiết [12], [13], [15] [25]; yếu tố chuyển vận kháng thuốc
    Chloroquine của ký sinh trùng sốt rét (CRT:Chloroquine resistance
    transporter) là một protein xuyên màng nằm ở không bào tiêu hóa acide của
    ký sinh trùng sốt rét; chức năng CRT chưa được hiểu thấu đáo, song biểu hiện
    bên ngoài gồm có 10 domain xuyên màng. Ở loài ký sinh trùng sốt rét hoang
    dại (nhậy với Chloroquine) thì Chloroquine tích tụ với nồng độ cao bên trong
    không bào và nó tạo ra tương tác qua lại trong khoang không bào nên có phát
    huy tác dụng chống lại và tiêu diệt KSTSR nhanh. Sự đột biến bên trong CRT
    có thể gây giảm nồng độ thuốc Chloroquine nên gây ra tình trạng kháng hoặc
    không đáp ứng thuốc này, so sánh giữa CRT với các thành viên khác trong họ
    protein xuyên màng có một ý nghĩa lớn để xem xét vai trò CRT, ý nghĩa của
    sự đột biến liên quan đến kiểu hình kháng Chloroquine. Điều này qua một số
    công trình cho biết có sự đột biến tại codon 76 và codon 86 trên vùng mà có
    liên quan lựa chọn với protein [15], [25], [33]. Một số nghiên cứu khác cho
    rằng kháng Chloroquine là do giảm nồng độ thuốc trong lysosome (Phillip và
    cs, 2001; Warhurst, 2001), đột biến kháng Chloroquine có liên quan đến gen
    pfmdr-1 (Warhurst, 2001), pfmdr-1 và pfcrt T76 [23]; một số yếu tố được
    quy kết có liên quan đến góp phần vào cơ chế kháng Chloroquine bao gồm do
    dùng thuốc không đủ liều, mức độ miễn dịch vật chủ, đột biến và tần suất tái 14
    nhiễm (Hombhanje và cs, 1997; Phillip và cs, 2001; Werndorfer và cs, 1991)
    [16], [18].
    Mặc dù có tỷ lệ thất bại lâm sàng và thất bại ký sinh trùng cao hơn 70%
    qua nhiều nghiên cứu, song gần đây một số báo cáo trên thế giới cho thấy có
    sự nhậy trở lại của P. falciparum với Chloroquine (Mitamura và cs, 2003;
    Laufer M.K và cs, 2006) [22], [20], song sự tái nhậy này liệu có bền vững
    không vẫn là một vấn đề giới chuyên môn đang tranh luận.
    1.1.2. Hiệu lực thuốc điều trị chống kháng
    1.1.2.1. Hiệu lực các thuốc chống sốt rét đơn trị liệu
    Để giải quyết tình hình kháng thuốc sốt rét, nhiều loại thuốc chống sốt
    rét có hiệu lực cao đã được đưa vào sử dụng như Mefloquine, Halofatrin
    tuy nhiên, Artemisinine và dẫn suất là loại thuốc được ưu tiên lựa chọn hiện
    nay [14], [20], [32]. Nguyên tắc lựa chọn thuốc chống kháng không chỉ dựa
    trên hiệu quả lâm sàng, tính dung nạp tốt, độ an toàn cao, độc tính thấp, ít tác
    dụng phụ mà còn lệ thuộc vào giá cả và sự chấp nhận của cộng đồng [6], [9].
    Đã có nhiều báo cáo về phác đồ đơn trị liệu Artesunate trong thời gian 10
    năm trở lại đây với liệu trình 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày được thử nghiệm tại Thái
    Lan, Tanzania cho tỷ lệ khỏi ACPR từ 72-100% (Bunnag và cs, 2005; Alin và
    cs, 2006; Hassan và cs, 2006) [20], [24], [26], [28]. Mặc dù P. falciparum đa
    kháng thuốc chống sốt rét, nhưng thuật ngữ “kháng” đến thời điểm hiện nay
    vẫn là ngoại lệ đối với nhóm thuốc Artemisinine và dẫn suất, nếu chúng ta
    không cẩn trọng với liệu pháp Artemisinine đơn thuần hoặc bất kỳ đơn liệu
    pháp thuốc sốt rét nào cũng sẽ làm gia tăng phát triển kháng thuốc nhanh
    (trung bình 5-7%) [31], [33]. Từ những cảnh báo sớm đó, WHO đã yêu cầu
    các công ty dược phẩm dừng việc tiếp thị và bán thuốc sốt rét dưới dạng đơn
    trị liệu Artemisinine hoặc dẫn suất vào đầu năm 2006 [23]. Thực tế lâm sàng 15
    điều trị sốt rét đến nay chưa báo cáo kháng thuốc Artemisinine, nhưng mô
    hình kháng Artemisinine thực nghiệm trên sốt rét của vật chủ gặm nhấm đã
    khẳng định; chẳng hạn, P.yoelii hoặc P.berghei (kháng với Artemisinine và
    Artemether) hoặc P.chabaudi kháng với Artesunate [31]. Mặc dù chưa có
    hiện tượng kháng Artemisinine trên lâm sàng, song có ba bằng chứng đủ cảnh
    báo nguy cơ kháng thuốc Artemisinine xảy ra [26], [32]:
    (i) Sự giảm nhạy của P. falciparum với dẫn suất của Artemisinine: tại
    Trung Quốc, việc dùng Artemisinine đơn trị liệu hơn một thập niên với
    quy mô lớn, tính nhạy của P. falciparum trên in vitro với Artesunate
    giảm đáng kể từ 1988-1999, nồng độ ức chế (IC 50 ) tăng lên gấp đôi,
    nồng độ ức chế tổi thiểu (MIC) tăng gấp 3 lần; ở Việt Nam, thuốc
    Artemisinine dùng phác đồ đơn trị liệu phạm vi rộng lớn cũng cho thấy
    IC 50 vẫn ổn định từ 1998-2001, nhưng IC 90 và IC 99 phải tăng đến 2-4 lần,
    điều đó có nghĩa là giảm nhậy rõ ràng. Ngoài ra, một số quốc gia khác
    như Cambodia, Cameroon, Thái Lan cũng cho kết quả tương tự như thế;
    (ii) Giảm hiệu lực thuốc từ các nghiên cứu đa quốc gia: hiệu quả điều trị
    của Artemisinine và dẫn suất artesunate liều 12mg/kg trong 5 ngày là 71-
    87.5% nhưng tăng dần lên ở liều 16mg/kg trong 7 ngày thì hiệu quả lên
    đến 93.1%; tỷ lệ thất bại điều trị này không những do giảm hiệu lực mà
    còn phụ thuộc vào mật độ KSTSR trước điều trị;
    (iii) Giảm hiệu lực thuốc từ những báo cáo ca bệnh đơn lẻ: 4 trường hợp (2
    trường hợp ở Ấn Độ và 2 ở Thái Lan) nghi ngờ thất bại điều trị, xuất
    hiện lại KSTSR vào các ngày D 14 , D 21 , D 17, sau khi các nhà lâm sàng đã
    loại yếu tố gây nhiễu như tình trạng miễn dịch hay bệnh lý di truyền trên
    các bệnh nhân này không biểu hiện gì. 16
    Ngoài ra, trong thời gian qua tình hình sử dụng, mua bán thuốc
    Artesunate tại các cơ sở y tế tư nhân quá phổ biến, trong khi hướng dẫn dùng
    thuốc không hợp lý và không được quản lý hay theo dõi sau điều trị. Chính
    điều đó khiến nảy sinh một số vấn đề (i) gia tăng áp lực thuốc sẽ là chỉ điểm
    chính cho lan rộng kháng thuốc, (ii) Phơi nhiễm giữa ký sinh trùng sốt rét P.
    falciparum với liệu trình dùng thuốc Artemisinine không đủ liệu trình đóng
    một vai trò không nhỏ về mức hiệu quả, nên cũng góp phần phát triển kháng
    [29], [32].
    Tình trạng xuất hiện và lan rộng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc đang
    đe dọa một số hoạt động trong chương trình phòng chống sốt rét vốn có hiệu
    quả. Từ lâu, phòng chống sốt rét dựa trên nhiều mặt và thành công không thể
    không kể đến hiệu lực của thuốc sốt rét. Trong gần 10 năm trở lại đây, hợp
    chất thuốc Artemisinine được giới thiệu và dùng trong phạm vi rộng, đặc biệt
    ở Tiểu vùng sông Mê Kông. Một số kinh nghiệm cho thấy tình trạng kháng
    thuốc có thể rút ngắn “tuổi thọ” của thuốc sốt rét, đặc biệt là thuốc mới. Nếu
    không có kế hoạch giám sát tình hình kháng thuốc thì việc đầu tư tiền của vào
    phát triển một thuốc sốt rét mới sẽ là lãng phí lớn [18], [26].
    1.1.2.2. Hiệu lực các phác đồ phối hợp thuốc
    Đầu năm 2006, WHO kêu gọi các công ty dược phẩm trên thế giới
    nhanh chóng định hướng tung ra sản phẩm thuốc sốt rét của mình sao cho hợp
    lý và theo quan điểm chung là không dùng đơn trị liệu, tạm dừng ngay việc
    sản xuất và tiếp thị phác đồ đơn trị liệu Artesunate nên một loạt quốc gia
    hưởng ứng, trong đó đặc biệt là Ấn Độ, Kenya và 11 nước châu Phi như
    Angola, Botswana, Congo, Madagascar, Malawi, Mozambique, Namibia,
    Swaziland, Tanzania, Zambia, Zimbabwe [31]. Các cố gắng và nỗ lực trong
    thời gian qua ở các nhà khoa học là nghiên cứu cơ chế tác động của thuốc sao
    cho phải khác với cơ chế của các thuốc sốt rét cổ điển; mặt khác phải thường 17
    xuyên có biện pháp làm thế nào trì hoãn diễn tiến kháng thuốc khi thuốc sốt
    rét mới bắt đầu giới thiệu ra thị trường. Khám phá và phát minh ra một loại
    thuốc sốt rét mới cần đầu tư nhiều công sức, tiền của và không kể đến nguy
    cơ thất bại nếu như chúng ta không thực hiện hai mặt của một vấn đề nêu trên.
    Do vậy, trong khi chờ đợi một thuốc sốt rét mới trong tương lai, việc cần làm
    ngay trong thời điểm này chính là kéo dài hiệu quả hay nói đúng hơn là kéo
    dài tuổi thọ của thuốc sốt rét bằng cách bảo vệ không để gia tăng đột biến
    kháng thuốc. Một trong những chương trình hành động đó, tập trung vào phối
    hợp thuốc có thành phần Artemisinine (ACTs) [7], [10], [37]. Các phác đồ
    ACTs như Coartem, CV8, Artecom, Coarsucam, Artemodi, Artequick,
    Artekin, Arterakin cũng đã được nghiên cứu tại nhiều quốc gia và tổ chức
    trên thế giới như Thái lan, Cambodia, Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc,
    Myanmar cùng các nước châu Phi và đã được WHO khuyến cáo sử dụng [3],
    [25].
    Thử nghiệm hiệu quả điều trị in vivo test liên quan đến việc đánh giá lặp
    lại và thường quy của tình trạng lâm sàng và ký sinh trùng của bệnh nhân
    được điều trị với những thuốc sốt rét đặc hiệu. Sự tái xuất hiện KSTSR trong
    máu và có hay không có tồn tại triệu chứng lâm sàng được xem như chỉ điểm
    giảm nhạy đối với KSTSR với thuốc đó. Khi những đánh giá như vậy được
    tiến hành đồng thời trong thời gian thích hợp và lựa chọn đại diện cho vùng
    lưu hành sốt rét thì chương trình phòng chống sốt rét nên giám sát hiệu lực
    thuốc theo hướng mà có thể thay đổi khuyến cáo điều trị hoặc chính sách
    thuốc để sớm đủ khống chế tối thiểu tình trạng thất bại của phác đồ đó.
    Gần đây Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cập nhật thông tin và quy định
    cũng như một số tiêu chuẩn trong đánh giá hiệu lực thuốc sốt rét trong điều trị
    sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng nhằm hỗ trợ nghiên cứu hiệu quả
    phác đồ thuốc sốt rét tại mỗi quốc gia “Assessment and monitoring of 18
    antimalarial drug efficacy for the treatment of uncomplicated falciparum
    malaria”-WHO/2007 [38].
    1.2. Tình hình kháng thuốc sốt rét và hiệu lực thuốc điều trị chống
    kháng tại Việt Nam
    1.2.1. Tình hình kháng thuốc sốt rét
    Kể từ sau ca bệnh đầu tiên trên một người lính viễn chinh nhiễm P
    .falciparum kháng thuốc Chloroquine (1961) ở Việt Nam do tác giả Power và
    cộng sự báo cáo; sau đó tỷ lệ kháng tăng cao tại một số vùng trọng điểm sốt
    rét trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên, từ 30-55% giai đoạn 1976-1984
    đến 55-90% giai đoạn 1985-1996 (T.N.Trung và cs., 1996) [11] biên giới
    Việt-Lào (Bùi Đại và cs, 1965) [2]. Sau đó hiện tượng kháng do chủng
    P.falciparum đa kháng với các thuốc sốt rét lần lượt được phát hiện: tỷ lệ
    kháng với Amodiaquine 36,50% (T.N.Trung và cs,1986) [11] với
    sulfadoxine/pyrimethamine 20-75% (T.N.Trung và cs, 1996) [13]. Cùng thời
    điểm đó, P. falciparrum giảm đáp ứng với một số loại thuốc sốt rét khác
    (Quinine và Mefloquine). Khoảng 5 năm qua, hiện tượng tái phát sớm với
    nhóm thuốc có hiệu lực cao Artemisinin và dẫn suất đang là thử thách lớn
    trong điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét, đặt biệt ở khu vực đa kháng thuốc
    sốt rét tại miền Trung-Tây Nguyên [2], [10], [11].
    Tại miền Bắc, từ năm 1966-1968 hiện tượng P. falciparrum kháng
    Chloroquine được phát hiện (Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Duy Sĩ, 1966); tiếp
    theo đó hiện tượng kháng này được phát hiện ở Quảng Bình (Vũ Thị Phan và
    cs, 1967) [9] và một số tỉnh khác như Tuyên Quang, Hà Giang, Sơn La, Bắc
    Thái. Riêng tại biên giới Tây Nam, chủng P. falciparrum kháng Chloroquine
    xuất hiện sớm hơn và nặng hơn: tỷ lệ kháng chung (R I + R II + R III ) ở khu vực 19
    này từ 1978-1979 là 85% và tăng nhanh đến 100% vào năm 1981-1982 (Bùi
    Đại và cs, 1982) [2].
    Quinine là một thuốc sốt rét được phát hiện và sử dụng trên 300 năm
    nay và duy trì hiệu lực tương đối bền vững. Tại Việt Nam, từ 1965-1970 có
    nhiều thông báo lẻ tẻ về sự giảm nhậy của P. falciparrum với Quinine: tỷ lệ
    tái phát sau điều trị là 56% (Bùi Đại và cs, 1965) [2], ở miền Nam với tổng
    liều Quinine trong 7 ngày có tỷ lệ kháng R I là 68% và R II + R III là 7% (Bùi
    Đại và cs, 1972), những năm 1985-1990 hiện tượng P. falciparrum kháng
    Quinine đã được khẳng định (T.N. Trung và cs, 1991; Nguyễn Văn Kim và
    cs, 1990) [11] và đồng thời trong thời gian này ở phía Nam, tỷ lệ kháng chung
    với Quinine là 43,4% (Nguyễn Duy Sĩ và cs, 1990) [2], [4], [9].
    1.2.2. Hiệu lực phác đồ phối hợp điều trị chống kháng
    Giải pháp kéo dài hiệu lực của một thuốc sốt rét và giảm nguy cơ ký
    sinh trùng sốt rét kháng thuốc được lựa chọn là sử dụng phối hợp thuốc có
    gốc Artemisinin (ACTs). Trước tình hình kháng thuốc ngày càng phức tạp với
    mức độ kháng cao trên diện rộng, ACTs đã được khuyến cáo đưa vào điều trị
    sốt rét do P. falciparrum ở Việt Nam cũng như một số quốc gia có sốt rét lưu
    hành trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh việc chỉ định sử dụng thuốc cần phải
    xây dựng các sentinel và hệ thống giám sát kháng thuốc để có thể kịp thời
    cảnh báo khả năng thất bại điều trị của phối hợp thuốc này, nhất là ở khu vực
    miền Trung-Tây Nguyên nơi có tỷ lệ mắc sốt rét cao và là cái “nôi” kháng
    thuốc sốt rét của cả nước. Từ những quan điểm, dữ liệu dựa trên hiệu quả điều
    trị và độ an toàn của thuốc sốt rét hoặc thuốc phối hợp sẽ rất hữu ích trong
    việc quyết định có hay không dùng thuốc sốt rét ưu tiên tại các tuyến, danh
    mục thuốc sốt rét thiết yếu cũng như chính sách thuốc quốc gia phù hợp với
    từng giai đoạn [9], [11], [12]. 20
    Một trong những thuốc ACTs đầu tiên ra đời tại Việt Nam là CV-8 được
    Viện Nghiên cứu Y học nhiệt đới Sanya và Trường Đại học Trung y dược
    Quảng Châu, Trung Quốc hợp tác với nhiều đơn vị nghiên cứu ở Việt Nam
    như Bệnh viện Chợ Rẫy-TP. Hồ Chí Minh, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn,
    Trung tâm đào tạo và nghiên cứu y học cổ truyền TP. Hồ Chí Minh, Bệnh
    viện đa khoa Xuân Lộc-Đồng Nai, Bệnh viện Tân Phú-Lâm Đồng, Bệnh viện
    đa khoa tỉnh Lâm Đồng, Trung tâm PCSR Bình Thuận, Xí nghiệp dược phẩm
    Trung ương 26-OPC TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh, Viện Sốt rét-KST-
    CT Trung ương và nhiều cơ sở y tế khác nghiên cứu từ năm 1996-2000 [8],
    [9], [15], [25]. CV-8 có 4 thành phần (Dihydroartemisinine + Piperaquine +
    Primaquine + Trimethoprim), qua rất nhiều quy trình nghiên cứu thử nghiệm,
    phối hợp thuốc CV-8 đã chứng tỏ được các ưu điểm vượt trội là có hiệu lực
    điều trị cao, tỷ lệ thất bại điều trị thấp, tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng
    đầy đủ ACPR là 97,5-100%, thời gian điều trị ngắn (3 ngày), được cộng đồng
    dễ chấp nhận, giá thành rẻ và có thể sản xuất từ nguồn nguyên liệu hiện có
    trong nước. Từ năm 2003 đến nay, phối hợp thuốc CV-8 đã được chính thức
    bổ sung vào danh mục thuốc sốt rét thiết yếu ở Việt Nam. Tuy nhiên, thuốc
    CV-8 vẫn còn tồn tại một số nhược điểm là có đến 4 thành phần phối hợp,
    trong đó có Primaquine nên không thể sử dụng, chỉ định điều trị rộng rãi cho
    tất cả các đối tựợng bệnh nhân là phụ nữ có thai, trẻ em dưới 3 tuổi, người có
    bệnh gan, thận ; nên cần phải tìm kiếm thêm một thuốc có gốc Artemisinine
    khác để phù hợp với chiến lược sử dụng thuốc sốt rét ở nước ta [4], [8], [15].
    Trên cơ sở thành công của phối hợp thuốc CV-8, một số thuốc phối hợp
    Artekin/Arterakin/CV-artecan (Dihydroartemisinine + Piperaquine) và
    Artequick (Artemisinine + Piperaquine) có thể được xem như một dạng CV-8
    cải tiến khi bỏ bớt đi hai thành phần Primaquine và Trimethoprim, nhưng vẫn
    đảm bảo tính hiệu quả cắt sốt, diệt ký sinh trùng và giảm giao bào của P.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...