Tiểu Luận So sánh đối tượng nộp thuế GTGT và thuế TTĐB theo qui định pháp luật hiện hành? Tại sao pháp luật lạ

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I/ Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo quy định của pháp luật hiện hành.
    Đối tượng nộp thuế GTGT được quy định tại Điều 4 Luật thuế GTGT năm 2008 như sau: “Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu)” và tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 123/2008/NĐ – CP bao gồm cả : ”2. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ (kể cả trường hợp mua dịch vụ gắn với hàng hoá) của tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân mua dịch vụ là người nộp thuế ”
    Với các quy định trên có thể thẩy, đối tượng nộp thuế GTGT phải có những điều kiện sau đây:
    - Là chủ thể có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT trên lãnh thổ Việt Nam hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT (Hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được quy định tại Điều 3 Luật thuế GTGT năm 2008) hay mua dịch vụ của chủ thể kinh doanh nước ngoài không hiện diện thực tế ở Việt Nam (trừ các dịch vụ như sửa chữa phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị; quảng cáo, tiếp thị; xúc tiến đầu tư và thương mại; môi giới bán hàng hoá; đào tạo; chia cước dịch vụ bưu chính, viễn thông quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài mà các dịch vụ này được thực hiện ở ngoài Việt Nam) .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...