Tiểu Luận So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992

    A. Lời mở đầu:
    Thành tựu quan trọng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong 64 năm qua kể từ ngày thành lập là đã xây dựng được bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện, phù hợp với bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như bộ máy nhà nước của các quốc gia khác trên thế giới, có cơ cấu tổ chức rất phức tạp bao gồm nhiều loại cơ quan có tên gọi khác nhau, được hình thành bằng những cách thức khác nhau và có chức năng, thẩm quyền khác nhau. Tuy nhiên, thông qua việc xây dựng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hệ thống pháp luật đặc biệt là Hiến pháp đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các mặt đời sống xã hội, lãnh đạo, động viên nhân dân thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

    B. Nội dung.
    I. Khái niệm bộ máy nhà nước

    Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở; tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một cơ chế để thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
    Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước. Bộ máy nhà nước được hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp hơn. Sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chúng ngày càng tiến bộ hơn.



    II. So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992
    1. Hoàn cảnh ra đời BMNN theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992.
    a. Hoàn cảnh ra đời hiến pháp 1946
    Khi xem xét, nghiên cứu bất kì sự vật, hiện tượng nào phải nghiên cứu nó trong điều kiện thời gian và không gian nhất định mới thấy hết bản chất của sự vật, hiện tượng. Do đó, không thể nghiên cứu bộ máy nhà nước tách rời hoàn cảnh lịch sử.
    Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 ra đời sau khi nhân dân ta đập tan bộ máy thực dân phong kiến giành chính quyền nhà nước trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngay tại phiên họp đầu tiên( 03/9/1945) chính phủ lâm thời đã xác định sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và nhân dân ta trong việc bảo tồn nền độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Trên tinh thần của phiên họp này, các văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới – Nhà nước dân chủ nhân dân được ban bố. Ngày 08/9/1945, Sắc lệnh số 14 quy định về thể lệ tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội được ban hành. Tháng 3/1946, Quốc hội họp kì đầu tiên và bầu ra ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và các thành viên của chính phủ. Tháng 11/1946, tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta đồng nghĩa với việc thông qua bộ máy nhà nước mà Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm cũng như điều kiện của nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945 nên cơ cấu tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với tính chất và vị trí của nó. Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
    b. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992
    Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã trải qua nhiều thử thách, gian nan. Trong hoàn cảnh đó lịch sử lập hiến Việt Nam cũng có những bước thăng trầm nhất định. Đánh giá thật khách quan, chính xác, đúng đắn hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quốc tế đã ảnh hưởng đến lịch sử lập hiến Việt Nam là một việc làm cần thiết. Vì nếu không hiểu quá khứ thì không thể hiểu được hiện tại và không thể định hướng được tương lai.
    Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chan hoà khí thế lạc quan của cuộc đại thắng mùa Xuân 1975; tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội đã xuất hiện; không kịp thời khắc phục cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong thời chiến. Hiến pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhược điểm nhất định.
    Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu ra và vạch rõ phương hướng khắc phục những sai lầm và nhược điểm đó. Đường lối kinh tế coi công nghiệp hoá là trung tâm của thời kỳ quá độ (Điều 16) về cơ bản là đúng. Nhưng do tưtưởng nóng vội, xuất phát từ tưtưởng muốn đi nhanh, không tính đến khả năng thực tế, nên chủ trương "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng"; bởi vậy, trong thực tế, chúng ta thiên về xây dựng những công trình công nghiệp nặng và với quy mô lớn. Không coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Không tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Nhiều quy định vượt quá điều kiện kinh tế xã hội cho phép như"Học không phải trả học phí" (Điều 60) "Khám bệnh không phải mất tiền" (Điều 61).
    Do chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 và quan niệm giáo điều về nền tảng kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tưliệu sản xuất nên Hiến pháp 1980 quy định về cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tưliệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động (Điều 18). Một số quy định của Hiến pháp đã cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước như"Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài" (Điều 21), "Những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tưsản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi thường" (Điều 25).
    Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) ngày càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Tình hình thực tiễn đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống mới. Hiến pháp năm 1992 xây dựng phù hợp với thời kì đất nước đang tiến hành đường lối đổi mới được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cua Đảng cộng sản việt Nam năm 1986.
    Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1992 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...