Chuyên Đề Sinh học phân tử - kỹ thuật PCR

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/7/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
    KHOA SINH HỌC
    -----c & d------





    CHUYÊN ĐỀ SINH HỌC PHÂN TỬ

    TÌM HIỀU VỀ
    KỸ THUẬT PCR
    (POLYMERASE CHAIN REACTION)



    Giảng viên : GS. TS Nguyễn Thành Đạt
    PGS.TS Đặng Hữu Lanh
    Học viên : Ngô Như Hải
    Lớp : Cao học K19
    Chuyên ngành : Động vật học

    HÀ NỘI, 3 – 2010


    MỞ ĐẦU

    Trong khoảng 3 thập kỷ qua nhân loại đã trải qua cuộc cách về mạng sinh học, những vấn đề sinh học phân tử (các quá trình lưu trữ, truyền đạt và biểu hiện thông tin di truyền ở mức độ phân tử) là một bộ phận trong cuộc cách mạng đó. Các kiến thức của sinh học phân tử cho phép chúng ta giải thích được mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng của các đại phân tử sinh học cũng như sự vận hành và kiểm soát các quá trình sinh hóa trong tế bào. Trọng tâm của sinh học phân tử là việc nghiên cứu các đại phân tử như ADN, ARN và Protein cùng các quá trình tái bản, phiên mã và dịch mã.
    Trong số các tiến bộ kỹ thuật góp phần tạo ra các cuộc bùng nổ về lĩnh vực sinh học phân tử chúng ta phải kể tới kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction). Kỹ thuật PCR do Kary Mullis đề suất ra vào năm 1985, đây là phương pháp invitro để nhân bản nhanh một đoạn ADN nào đó, có độ nhạy rất cao chỉ cần một khối lượng ban đầu rất hạn chế. Bản thân kỹ thuật này chỉ là sự mở rộng trực tiếp các tính chất của quá trình tái bản ADN. Nhưng nó đã được sử dụng theo nhiều cách khác nhau để làm cho việc tách dòng và thao tác với ADN dễ dàng và hiệu quả hơn.
    Vậy nguyên tắc, thành phần tham gia, điều kiện, các bước tiến hành , ứng dụng và hạn chế của kỹ thuật PCR như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu sau đây









    Lịch sử
    Phương pháp căn bản chạy PCR được Kary Mullis phát minh, ông đã đoạt giải Nobel về Hóa học vào tháng 10 năm 1993 cho thành tựu này, chỉ sau 7 năm khi ông đưa ra ý tưởng. Ý kiến của Mullis là phát triển một quy trình mà ADN có thể nhân lên nhiều lần một cách nhân tạo qua nhiều chu kỳ sao chép bởi enzyme ADN polymerase.
    ADN polymerase có tự nhiên trong sinh vật sống, nơi mà nó thực hiện chức năng nhân ADN khi tế bào phân chia. Nó làm việc bằng cách nối với sợi ADN và tạo sợi bổ sung. Theo quy trình PCR gốc của Mullis, enzyme phản ứng nhân bản ADN được thực hiện trong ống nghiệm (in vitro). Sợi ADN đôi bị tách thành 2 sợi đơn khi đun nóng ở 96°C. Tuy nhiên, ở nhiệt độ này ADN polymerase bị phá hủy vì vậy cần bổ sung enzyme sau mỗi giai đoạn nung nóng của mỗi chu kỳ. Quy trình PCR gốc của Mullis không có hiệu quả cao vì nó mất nhiều thời gian, cần một lượng lớn ADN polymerase, và phải liên tục lưu ý suốt trong quá trình PCR.
    Sau đó, quy trình gốc này được phát triển bằng cách dùng ADN-polymerase lấy từ vi khuẩn Thermus aquaticus (ưa nhiệt) sống trong mạch nước phun ở nhiệt độ trên 110°C. ADN polymerase từ sinh vật này là thermostable (ổn định ở nhiệt độ cao) và khi dùng trong PCR nó không bị phá vỡ khi hỗn hợp được nung nóng để tách sợi ADN. Từ đó, không cần phải thêm ADN-polymerase vào mỗi chu kỳ, quá trình sao chép ADN có thể đơn giản và tự động hơn.
    Một trong những ADN-polymerase chịu nhiệt đầu tiên được phân lập được từ Thermus aquaticus và được gọi là Taq. Taq polymerase được dùng rộng rãi trong thực nghiệm PCR (5/2004). Nhược điểm của Taq là thỉnh thoảng nó nhầm lẫn trong quá trình sao chép ADN, dẫn đến đột biến (sai) trong chuỗi ADN, vì nó thiếu tính sửa sai exonuclease 3’-5’. Các polymerase như Pwo hay Pfu, được phân lập từ Archaea có cơ chế sửa sai (cơ chế kiểm tra lỗi sai) và có thể làm giảm một cách đáng kể số đột biến xảy ra trong chuỗi ADN được sao chép. Ngày nay, sự kết hợp giữa Taq và Pfu có thể cung cấp cả độ tin cậy cao lẫn sự nhân bản chính xác của ADN.
    I. Khái niệm chung
    Kỹ thuật PCR (phản ứng chuỗi trùng hợp - Polymerase Chain Reaction) là phương pháp in vitro để nhân bản nhanh một đoạn AND nào đó, có độ nhạy rất cao, mà chỉ cần một khối lượng mẫu ban đầu hạn chế.
    II. Nguyên lý
    Kỹ thuật tổng hợp ADN ngoài cơ thể cũng tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của sao chép ADN trong cơ thể như: Đoạn cần nhân mở xoắn thành hai mạch đơn, cần có các cặp mồi (mồi xuôi, mồi ngược), cần nguyên liệu và điều kiện môi trường thích hợp và enzym ADN polymerase. Tuy nhiên kỹ thuật PCR có khác là dùng nhiệt độ cao (94[SUP]o[/SUP]C) tháo xoắn thay cho helicase kết hợp với enzym AND polymerase chịu nhiệt và hệ thống điều nhiệt thích hợp cho từng giai đoạn phản ứng tổng hợp cùng với các đoạn mồi được thiết kế chủ động. Nhờ kỹ thuật PCR mà với một lượng nhỏ ADN ban đầu chúng ta có thể thu được đủ lượng ADN cần thiết để tiến hành các thí nghiệm về ADN.
    III. Các điều kiện của phản ứng PCR
    Muốn tiến hành phản ứng PCR cần có các thành phần sau:
    - ADN khuôn.
    - Mồi.
    - ADN polymerase.
    - Các deoxyribonucleotit triphosphat (dNTP).
    - Dung dịch đệm (buffer).
    1. ADN khuôn (template)
    Gần như bất kỳ loại ADN, dù là mạch thẳng, mạch vòng, ADN plasmit, ADN hệ gen, cADN, hoặc ARN đều có thể làm khuôn cho phản ứng PCR. ADN lấy từ nguồn nào không quan trọng yêu cầu duy nhất là vị trí gắn các mồi và trình tự giữa chúng còn nguyên vẹn đã có những mẫu ADN mà tuổi đến hơn 7 nghìn năm vẫn được sử dụng rất thành công trong các phản ứng PCR.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...