Chuyên Đề Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại – nhìn từ góc độ lý luận và kinh nghiệm các nước

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại – nhìn từ góc độ lý luận và kinh nghiệm các nước


    Tín dụng (TD) là hoạt động kinh doanh chính của các NHTM, đây là lĩnh vực hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro rất cao. Chính vì thế, gắn liền với việc mở rộng TD thì công tác quản trị rủi ro tín dung (RRTD) luôn được các NHTM chú ý. Bài viết này sẽ đề cập một số nội dung chủ yếu sau đây
    1.Những vấn đề chung về RRTD
    Theo Ủy ban Basel (thuộc NH thanh toán quốc tế) thì: RRTD là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết. Cũng theo Ủy ban này thì “Rủi ro thất thoát đối với một NH là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nơ gốc và lãi”.
    Theo quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN (ngày 22 tháng 04 năm 2005) của Thống đốc NH Nhà nước Việt Nam thì: “RRTD trong hoạt động NH của tổ chức TD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH của tổ chức TD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
    Có thể nhận dạng RRTD ở 2 đặc tính:
    (1) Biên độ rủi ro. Thể hiện sự thiệt hại mà rủi ro gây ra;
    (2) Tần số xuất hiện của rủi ro. Thể hiện việc xuất hiện rủi ro đó nhiều hay ít, có quy luật hay không.
    RRTD luôn đem đến những hậu quả rất khó lường cho nền kinh tế cũng như chính bản thân các NHTM.
    Đối với các NHTM. RRTD phát sinh sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực:
    (i) Làm giảm uy tín của NHTM. RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực hoạt động kinh doanh của NHTM không tốt, làm suy giảm uy tín của NH trên thị trường huy động vốn do suy giảm lòng tin của công chúng gửi tiền, suy giảm tín nhiệm trên thị trường tiền tệ quốc tế, gây khó khăn trong việc quan hệ vay vốn nước ngoài, thiết lập quan hệ đại lý với nước đó, hạn chế năng lực cạnh tranh;
    (ii) Làm suy giảm năng lực thanh toán của NHTM. RRTD xảy ra làm cho NHTM không thu hồi được gốc và lãi số vốn đã cho vay theo kế hoạch đã định, trong khi đó, NH vẫn phải thanh toán các nghĩa vụ tài chính đến hạn, đó là nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản;
    (iii) Làm giảm lợi nhuận trong hoạt động NHTM. Khi RRTD xảy ra, NHTM không thu hồi được nợ vay như dự kiến ban đầu, làm chậm tốc độ quay vòng vốn, mất cơ hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí thua lỗ; thu nhập giảm sút, giảm phần nộp ngân sách, hạn chế tích luỹ để hiện đại hoá công nghệ và đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ. NH bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí phải xoá nợ. Các NH phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên làm giảm thu nhập của NH;
    (iv) Làm tăng nguy cơ phá sản NH. RRTD gây thất thoát vốn, các NHTM có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn tới phá sản. Việc phá sản một NH có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền gây nên phá sản các NH khác và làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế, chính trị quốc gia.
    Đối với nền kinh tế . Do hoạt động của các NHTM liên quan đến hầu hết mọi người, mọi ngành, lĩnh vực hoạt động trong xã hội, cho nên khi RRTD phát sinh sẽ tác động tiêu cực đến hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội:
    (i) Khiến cho nguồn lực bị sử dụng kém hiệu quả. Là trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay đáp ứng các yêu cầu về vốn cho đầu tư phát triển, do vậy các NHTM phải cho vay đúng đối tượng thì nguồn vốn TD mới phát huy hiệu quả cao, nếu ngược lại thì nguồn vốn sẽ bị sử dụng kém hiệu quả, không có khả năng trả nợ NH, RRTD phát sinh; (ii) Hệ thống thanh toán bị suy giảm, thậm chí bị tê liệt. Một khi các KH vay vốn không có khả năng trả nợ những món vay thì điều này đồng nghĩa với việc các NHTM phải đốí mặt với những khó khăn trong hoạt động thanh toán. Nếu tình trạng này diễn biến phức tạp với nhiều khách hàng không có khả năng trả nợ NH, thì khủng hoảng nợ có thể xảy ra và sẽ làm tê liệt hệ thống thanh toán trong nền kinh tế;
    (iii) Làm mất tác dụng của công cụ TD với tư cách là một đòn bẩy kinh tế. Nguyên tắc TD là tính hoàn trả (cả gốc và lãi), để đáp ứng yêu cầu này thì đòi hỏi vốn vay phải được sử dụng hiệu quả. Một khi khách hàng sử dụng vốn TD kém hiệu quả thì RRTD sẽ phát sinh, có nghĩa là vai trò đòn bẩy kinh tế bị mất tác dụng.
    Các loại RRTD
    RRTD của NHTM khá đa dạng và phức tạp, có thể nhận diện chúng căn cứ theo các tiêu chí khác nhau. Nếu căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ và quản trị điều hành của NHTM người ta có thể chia RRTD thành 2 loại:
    -Rủi ro nợ quá hạn. Nợ quá hạn là biểu hiện không lành mạnh của quá trình hoạt động TD của NHTM, báo hiệu các rủi ro đối với NH và khách hàng. Nợ quá hạn có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ theo nguyên nhân phát sinh có: (i) Nợ quá hạn từ phía người đi vay gây ra; (ii) Nợ quá hạn từ phía người cho vay gây nên; (iii) Nợ quá hạn do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch họa. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn, thì dù xuất phát từ bất kể nguyên nhân nào, cũng khiến cho các NHTM phải đối mặt với những rủi ro không thu hồi được khoản đã cho vay, điều này đe dọa sự phát triển ổn định của chính NHTM cũng như đối với toàn hệ thống các tổ chức TD. Hơn nữa, khi rủi ro phát sinh nó cũng đe dọa sự ổn định bền vững của môi trường kinh tế vĩ mô.
    -Rủi ro ứ đọng vốn, thiếu vốn. Với tư cách là một trung gian tài chính trong kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của các NHTM là “đi vay để cho vay”, nếu giữa 2 khâu trong chu trình hoạt động này không tạo được sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ thì rủi ro sẽ phát sinh. Cụ thể: (i) Rủi ro đọng vốn. Nếu huy động vốn của NHTM lớn hơn so với cho vay sẽ dẫn đến tình trạng đọng vốn. Việc đọng vốn này khiến các NHTM tăng chi phí, giảm thu nhập, thậm chí có thể dẫn tới thua lỗ ; (ii) Rủi ro thiếu vốn. Nếu như nhu cầu vốn vay của KH gia tăng nhưng nguồn vốn huy động lại không đáp ứng đầy đủ và kịp thời, hoặc nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu chi trả các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và các khoản chi phí khác, khi ấy các NHTM sẽ đối mặt với rủi ro, thậm chí là rất nghiêm trọng một khi khách hàng tới NHTM để rút tiền gửi hàng loạt.
    Ngoài ra, các NHTM còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác, như: rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn, rủi ro đạo đức
    Dấu hiệu cảnh báo RRTD
    RRTD ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Dưới đây là một số dấu hiệu cơ bản giúp nhận biết, phán đoán và sớm có những biện pháp kịp thời ngăn chặn rủi ro xảy ra
    Nhóm dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng. Bao gồm:
    (1) Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với NH. Có thể phát hiện dấu hiệu rủi ro thông qua các hành vi ứng xử của khách hàng, như: (i) Việc trì hoãn hoặc gây khó khăn đối với NH trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khác hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục; (ii) Không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình TD; (iii) Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục; (iv) Không có các báo cáo hay dự toán về lưu chuyển tiền tệ; (v) Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến; (vi) Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay; (vii) Khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán; (viii) Tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của NH; (ix) Sử dụng nhiều các nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn; (x) Chấp nhận sử dụng các nguồn vay vốn cao với mọi điều kiện; (xi) Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý ro hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ; (xii) Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại NH, xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của NH; (xiii) Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đầy dủ, đúng hạn; (xiv) Xuất hiện nợ quá hạn, nợ xấu do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khác hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, gia tăng bất thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ, giảm bất thường giá bán hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính.
    (2) Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng các khoản TD, nhưng tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt động SXKD của khách hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của NHTM. Các dấu hiệu cụ thể: (i) Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp TD; (ii) Những thay đổi bất thường trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng; (iii) Xuất hiện ngày càng nhiều chi phí bất hợp lý, như: Gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức để gây ấn tượng với các thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện đi lại đắt tiền; (iv) Thay đổi thường xuyên Ban điều hành, xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý; (v) Những thay đổi từ chính sách Nhà nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế xuất nhập khẩu, thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch SXKD của khách hàng; (vi) Kết quả kinh doanh lỗ; (vii) Khách hàng gặp rủi ro khách quan (bão lụt, hỏa hoạn, tai nạn, dịch bệnh xảy ra, bạn hàng của khách hàng gặp rủi ro hoặc bị phá sản, bị truy tố .); (viii) Tỷ lệ “nợ/ vốn chủ sở hữu’ (hệ số đòn bẩy) tăng.
    Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính NH. Có thể nhìn nhận những dấu hiệu rủi ro từ chính NHTM. Bao gồm: (i) Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng; (ii) Cấp TD dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm; (iii) Tốc độ tăng trưởng TD quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của NH; (iv) Cho vay dựa trên sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ Chi nhánh lên Công ty “con” hạch toán độc lập; (v) Chính sách TD quá cứng nhắc hoặc quá lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng; (vi) Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng TD, hợp đồng thế chấp mập mờ không rõ ràng; (vii) Cung cấp TD với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của NH, tỷ lệ TD cao cho một ít khách hàng, khách hàng có trụ sở ngoài lãnh địa hoạt động của NH; (viii) Hồ sơ TD không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt TD; (ix) Có xu hướng cạnh tranh thái quá (giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản TD mới để họ không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết rõ các khoản TD sẽ cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao); (x) Chưa nhạy cảm với sự thay đổi các điều kiện môi trường kinh tế; (xi) Cho vay hỗ trợ mục đích đầu cơ (mua bất động sản, kinh doanh chứng khoán .); (xii) Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng khoản TD.
    Nguyên nhân RRTD
    Rui ro TD xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nhóm nguyên nhân chính sau đây:
    Nguyên nhân từ phía môi trường KD. Bao gồm:
    Thứ nhất, Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh của các NHTM. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và một khi các khách hàng của NHTM kinh doanh hiệu quả thì sẽ có nhiều khả năng trả nợ cho NHTM. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ các khoản vay của NHTM.
    Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các NHTM. Chẳng hạn: (i) Chính phủ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, điều này sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát leo thang; khi lạm phát tăng cao sẽ làm tăng chi phí đầu vào trong kinh doanh của các khách hàng, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hậu quả là năng lực trả nợ của các khách hàng đối với NHTM sẽ bị suy giảm; (ii) Chính phủ thay đổi các chính sách tài chính, tiền tệ . sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của các NHTM .
    Thứ hai, Nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, địch họa, những thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật công nghệ của một ngành nào đó) có thể làm phá sản cả một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có hiệu quả vào thế thua lỗ, mất khả năng trả nợ. Điều này đặt các NHTM phải đối mặt với rủi ro mất vốn.
    Thứ ba, Nguyên nhân thông tin không cân xứng. NHTM thực hiện các nghiệp vụ tài sản Nợ, tài sản Có, chuyển vốn từ người gửi tiền sang người vay tiền - Toàn bộ các giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Song thực tế là một bên thường không biết hết những gì cần biết về phía bên kia và sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được như vậy được gọi là “thông tin không cân xứng”. Việc thiếu thông tin trong các giao dịch sẽ đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” và rủi ro đạo đức. Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính khiến các NHTM phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao.
    Nguyên nhân từ phía KH vay. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra RRTD cho NH. Khách hàng có thể đem lại rủi ro cho các NHTM khi: (1) Vốn tự có tham gia SXKD thấp so với nhu cầu về vốn kinh doanh. Trong tình huống này, buộc khách hàng phải đi huy động vốn. Nếu NHTM đáp ứng phần vốn còn thiếu hụt này của khách hàng thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro đối với NHTM sẽ tăng cao. Lý do là các khách hàng có xu hướng lao vào các hoạt động kinh doanh mạo hiểm hy vọng tìm kiếm lợi nhuận cao, bởi hầu hết vốn kinh doanh không phải là của họ, và điều này đồng nghĩa với việc hầu hết mọi gánh nặng rủi ro trong canh bạc mạo hiểm này được dồn hết vào vai các NHTM (là chủ sở hữu nguồn vốn cho vay); (2) Công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, điều này sẽ khiến hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp nhiều khó khăn. Một khi khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh thì sẽ khiến các NHTM đối mặt với rủi ro trong cho vay; (3) Năng lực quản trị điều hành của bộ máy lãnh đạo các doanh nghiệp bị hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch SXKD. Một khi điều này xảy ra sẽ khiến các NHTM đối mặt với nguy cơ rủi ro cao khi cho vay các khách hàng này; (4) Sự thiếu thông tin về khách hàng vay và thông tin về môi trường kinh tế mà khách hàng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến RRTD; (5) Thiện chí trả nợ vay NH của các khách hàng vay vốn. Một khi khách hàng thiếu thiện chí trả nợ các khoản đã vay thì các NHTM sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thu hồi nợ vay. Đây chính là loại rủi ro xuất phát từ đạo đức của người đi vay.
    Các nguyên nhân này NH có thể xác định được thông qua quá trình thẩm định, tìm hiểu, nắm vững tình hình hoạt động SXKD của khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án SXKD.
    Nguyên nhân từ bản thân các NH. RRTD có thể xuất phát từ chính bản thân các NHTM. Chúng bao gồm: (i) Không chấp hành nghiêm túc nguyên tắc TD; (ii) Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, công tác quản trị rủi ro chưa hữu hiệu, chưa chú trọng phân tích khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện cho vay và khả năng trả nợ; (iii) Kỹ thuật cấp TD chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định hạn mức TD cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là cấp TD trực tiếp, sản phẩm TD chưa phong phú; (iv) Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ TD còn bất cập so với yêu cầu công việc, thiếu kỹ năng nắm bắt, phân tích thông tin thị trường, thiếu khả năng dự báo chiều hướng biến động của thị trường, nhất là thị trường kinh doanh của các khách hàng chiến lược. Tư cách đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ TD còn nhiều yếu kém, thiếu sự quan tâm kiểm tra giám sát của các cấp lãnh đạo.
    2. Kinh nghiệm phòng ngừa RRTD từ NHTM các nước
    Kinh nghiệm của các NHTM Singapore
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...