Tài liệu Quyền liên quan đến quyền tác giả - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Quyền liên quan đến quyền tác giả - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

    Mở đầu

    1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
    Thưởng thức các giá trị nghệ thuật và làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần là nhu cầu cơ bản của con người và đó cũng là một yếu tố xuyên suốt lịch sử loài người. Tuy nhiên, việc ghi nhận và bảo hộ quyền của những người đóng góp sáng tạo trí tuệ của ḿnh cho sự thỏa măn nhu cầu cơ bản ấy dường như vẫn là một vấn đề mới mẻ. Nếu như quyền tác giả mới lần đầu tiên được bảo hộ trên phạm vi thế giới kể từ cuối thế kỷ 19 (với sự ra đời Công ước Berne năm 1886) th́ đối với quyền liên quan dành cho những người thể hiện chuyển tải các tác phẩm nghệ thuật đến công chúng, sự bảo hộ quốc tế chỉ được thiết lập sau đó gần một thế kỷ, và cho đến nay vẫn đang là vấn đề gây nhiều tranh luận.
    Với một nước đang phát triển và mới hội nhập như Việt Nam, Sở hữu trí tuệ nói chung mà đặc biệt là Quyền liên quan càng không thể là những khái niệm quen thuộc. Song, hội nhập vào một thế giới đang toàn cầu hoá mạnh mẽ đ̣i hỏi pháp luật quốc gia phải tương thích với những quy tắc của luật quốc tế, điều đó có nghĩa là chúng ta cần bảo hộ Quyền liên quan với mức độ và những nguyên tắc mang tính chất toàn cầu như nhiều quốc gia khác. Mặt khác, quy định Quyền liên quan trong pháp luật Sở hữu trí tuệ nước ta c̣n là đ̣i hỏi tất yếu từ bên trong. Bảo vệ có hiệu quả quyền lợi chính đáng của những nghệ sĩ biểu diễn, những nhà sản xuất bản ghi âm, ghi h́nh, các tổ chức phát sóng sẽ khuyến khích hoạt động nghệ thuật của họ, phục vụ đời sống tinh thần của xă hội. Đó cũng là điều kiện để nền văn hóa phong phú, đặc sắc và lâu đời của dân tộc được giữ ǵn, phát huy và giới thiệu đến thế giới
    Pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, do vậy, ngay từ khi mới h́nh thành đă dành sự quan tâm đáng kể tới các quyền liên quan bên cạnh các quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Tuy nhiên, với một hệ thống các quy định được cho là c̣n đang trong quá tŕnh hoàn thiện, lại đứng trước thực tế phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp giải trí trong thời đại số hóa, pháp luật về quyền liên quan đă bộc lộ những hạn chế nhất định, xuất hiện những vấn đề thực tiễn cần được xem xét và giải quyết, đ̣i hỏi không ngừng đổi mới và hoàn thiện các quy định của lĩnh vực pháp luật này. Với sự quan tâm đến vấn đề này, người viết đă chọn đề tài khóa luận cho ḿnh là: “Quyền liên quan đến quyền tác giả - một số vấn đề lư luận và thực tiễn”.
    2. T́nh h́nh nghiên cứu đề tài:
    Trên thế giới, vấn đề quyền liên quan đă thu hút sự quan tâm từ khá sớm của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà lập pháp, khi ngành công nghiệp giải trí – đặc biệt là ngành công nghiệp ghi âm – có những bước phát triển mạnh mẽ. Những nghiên cứu về Sở hữu trí tuệ nói chung đều dành dung lượng đáng kể cho việc phân tích quyền liên quan, bên cạnh đó là những công tŕnh chuyên sâu về mảng quyền riêng biệt này. Đặc biệt, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phổ biến của Internet trên quy mô toàn cầu và khả năng tiếp cận dễ dàng các sản phẩm nghệ thuật bằng các phương tiện kĩ thuật số, quyền liên quan có thể được coi là một đề tài “nóng” của sở hữu trí tuệ hiện nay.
    Tại Việt Nam, quyền liên quan được quy định trong pháp luật sở hữu trí tuệ không muộn hơn so với những nội dung khác như quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp, nhưng những nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều và đa phần mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Hầu hết những công tŕnh nghiên cứu chung về sở hữu trí tuệ đều chỉ đề cập tới quyền liên quan ở mức độ nhất định. Những nghiên cứu chuyên về vấn đề này thường là những bài phân tích trên các báo, tạp chí, website với dung lượng c̣n khá khiêm tốn.
    3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
    Quyền liên quan là một trong bốn loại quan hệ cơ bản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ, do vậy đây là một nội dung nghiên cứu tương đối rộng, bao hàm nhiều vấn đề. Tuy nhiên, một số vấn đề ở khía cạnh nào đó lại mang nhiều tính chất hành chính, như thủ tục đăng kư các quyền liên quan, hoặc có thể được nghiên cứu từ góc độ của một chế định khác trong Luật Dân sự, như Hợp đồng chuyển giao quyền liên quan cũng là một bộ phận của chế định Hợp đồng dân sự Do đó, trong khuôn khổ khóa luận, người viết tập trung vào các vấn đề lư luận về quyền liên quan; các quy định pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về chủ thể, đối tượng, nội dung, giới hạn quyền liên quan và xem xét t́nh h́nh thực thi trên thực tế các quy định này.
    Với phạm vi nghiên cứu như trên, người viết xác định đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khóa luận bao gồm:
    - Các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về quyền liên quan;
    - Các quy định về quyền liên quan tại các điều ước quốc tế phổ biến và pháp luật một số quốc gia;
    - T́nh h́nh thực thi các quy định pháp luật về quyền liên quan tại Việt Nam hiện nay.
    4. Mục đích nghiên cứu:
    Khoá luận hướng tới việc làm rơ cơ sở lư luận của quyền liên quan, phân tích các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh quyền liên quan cũng như phản ánh thực tiễn áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó, người viết đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền liên quan, nâng cao khả năng thực thi của chúng, bảo hộ có hiệu quả các quyền liên quan.
    5. Phương pháp nghiên cứu:
    Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xă hội nói chung, khoa học pháp lư nói riêng, đó là các phương pháp lịch sử, hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được kết hợp nhằm làm rơ các quy định của pháp luật thực định, nh́n nhận, đánh giá chúng trong mối liên hệ với pháp luật quốc tế cũng như trong thực tiễn áp dụng.
    6. Kết cấu khóa luận:
    Khóa luận bao gồm các phần: mở đầu, nội dung và kết luận; trong đó phần nội dung gồm có 3 chương:
    · Chương 1: Những vấn đề lư luận về quyền liên quan
    · Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền liên quan
    · Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền liên quan và một số kiến nghị

    Chương I.
    Những vấn đề lư luận về quyền liên quan

    1. Khái niệm quyền liên quan:
    1.1. Khái niệm chung về quyền liên quan:
    Quyền liên quan đến quyền tác giả thường được đề cập tới bằng hai thuật ngữ khác nhau. Pháp luật Châu Âu lục địa sử dụng thuật ngữ “quyền liên quan” (related rights) và xác định các quyền này rất gần với quyền tác giả nhưng không hướng tới tác giả đích thực sáng tạo ra tác phẩm và độc lập với lĩnh vực quyền tác giả. Trong khi đó, các nước theo hệ thống pháp luật Anh-Mĩ sử dụng thuật ngữ “quyền kề cận” (neighbouring rights) và điều chỉnh nó cùng với các quyền tác giả bằng Luật Bản quyền (Copyrights).
    Vấn đề sẽ đơn giản nếu sự khác biệt chỉ là vấn đề thuật ngữ chứ không phải những ǵ chứa đựng trong đó mà ta gọi là “khái niệm”. Quyền liên quan đến quyền tác giả là một lĩnh vực tương đối mới của sở hữu trí tuệ mà cho đến nay việc đưa ra một khái niệm chính xác và thống nhất về nó vẫn là một vấn đề đang được đặt ra cho các nhà nghiên cứu. Xây dựng được một khái niệm khoa học hoàn chỉnh là rất khó khăn và cũng cần rất nhiều thời gian. Quyền liên quan lại là một vấn đề mang tính quốc tế cao, là đối tượng của nhiều nghiên cứu với những góc nh́n khác nhau, và chứa đựng những mối quan hệ phức tạp với nhiều vấn đề như quyền tác giả, sự phát triển của lĩnh vực thông tin – văn hóa – giải trí Bởi vậy, chưa có khái niệm chuẩn xác trong khoa học pháp lư về quyền liên quan là điều có thể hiểu được, đó cũng là một thực tế phải chấp nhận.
    Một cách chung nhất, quyền liên quan thường được hiểu bao gồm ba loại quyền: quyền của nghệ sĩ biểu diễn đối với chương tŕnh biểu diễn của họ; quyền của nhà sản xuất bản ghi âm đối với chương tŕnh ghi âm của họ; và quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương tŕnh phát thanh và truyền h́nh của họ. Đây là ba loại quyền liên quan được bảo hộ trên phạm vi quốc tế bởi Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng kí kết năm 1961 (gọi tắt là Công ước Rome 1961).
    Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cũng có những nỗ lực trong việc đưa ra một cách hiểu dễ chấp nhận nhất về quyền liên quan. WIPO xác định, quyền liên quan là những quyền mà ngày càng nhiều quốc gia quy định nhằm bảo hộ lợi ích của người biểu diễn, nhà sản xuất các chương tŕnh ghi âm và tổ chức phát thanh truyền h́nh đối với các hoạt động của họ liên quan tới việc sử dụng trước công chúng các tác phẩm của các tác giả, tất cả các h́nh thức tŕnh diễn của các nghệ sĩ hoặc việc truyền đạt tới công chúng bất kỳ sự kiện, thông tin hay h́nh ảnh, âm thanh nào. Những phạm trù quan trọng nhất là: quyền của người biểu diễn ngăn cấm việc thu, ghi, định h́nh, phát sóng trực tiếp hay truyền tới công chúng buổi biểu diễn của họ mà không được họ cho phép, quyền của các nhà sản xuất chương tŕnh ghi âm cho phép hoặc không cho phép sao chép các chương tŕnh của họ và nhập khẩu, phân phối các phiên bản chương tŕnh được phép sao chép bất hợp pháp, quyền của các tổ chức phát thanh truyền h́nh cho phép hoặc không cho phép phát lại, định h́nh và làm bản sao chương tŕnh phát thanh truyền h́nh của họ. Ngày càng nhiều quốc gia bảo hộ những quyền này bằng những nguyên tắc thích hợp, pháp điển hoá chủ yếu trong khuôn khổ luật bản quyền. Nhiều quốc gia cũng dành cho người biểu diễn các quyền nhân thân để chống lại việc bóp méo các buổi biểu diễn của họ và dành cho họ quyền được nêu tên đối với các buổi biểu diễn. Một số quốc gia cũng bảo vệ lợi ích của các tổ chức phát thanh truyền h́nh bằng cách ngăn chặn việc truyền phát trên hoặc từ lănh thổ của họ bất kỳ tín hiệu mang chương tŕnh nào được phát đi hoặc truyền qua vệ tinh bởi các nhà truyền phát tới những người nhận mà thực ra tín hiệu không được dự định tới họ. Tuy nhiên, không thể có bất kỳ một sự bảo hộ quyền liên quan nào được diễn giải theo cách hạn chế hay gây thiệt hại tới việc bảo hộ dành cho các tác giả hoặc những người được hưởng quyền liên quan khác theo quy định của pháp luật quốc gia hay công ước quốc tế[1].
    Ngoài ra, một số quyền khác cũng có thể được bảo hộ với tư cách quyền liên quan, nhưng sự bảo hộ trong trường hợp này không mang tính toàn cầu. Ví dụ như theo quy định của Liên minh Châu Âu (EU), quyền của nhà sản xuất phim (khác với đạo diễn), và người tạo ra dữ liệu máy tính cũng được bảo vệ như quyền liên quan, thậm chí phạm vi này đôi khi c̣n mở rộng tới một số đối tượng thuộc về kiểu dáng công nghiệp[2].
    Trong khi chưa có sự thống nhất về khái niệm quyền liên quan và nội hàm của nó th́ việc nắm bắt được một cách cơ bản những nguyên nhân và sự h́nh thành các loại quyền liên quan có thể cung cấp những nhận thức rơ nét hơn về vấn đề này.
    Các sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật luôn hướng tới việc thỏa măn nhu cầu tinh thần của con người. Để thực hiện chức năng đó, các sản phẩm tinh thần này phải được phổ biến tới công chúng càng rộng răi càng tốt. Việc chuyển tải các tác phẩm tới công chúng, đặc biệt đối với các tác phẩm nghệ thuật, lại thường không phải do tác giả thực hiện mà thông qua một đội ngũ những người trung gian khác, và trong nhiều trường hợp, sự tham gia của lực lượng này là không thể thiếu. Ví dụ, một vở kịch cần phải được tŕnh diễn trên sân khấu bởi một dàn diễn viên cùng với những người phụ trách ánh sáng, âm nhạc mà rơ ràng tác giả nếu có tham gia cũng chỉ có thể đóng góp một phần nhất định. Hoặc một bài hát muốn đến được với khán giả một cách hiệu quả th́ không có cách nào hơn là nó phải được thể hiện bởi người ca sĩ chứ không thể chỉ là những câu chữ và nốt nhạc trên giấy, và người nhạc sĩ sáng tác nên bài hát lại ít khi là người thể hiện tác phẩm của ḿnh thành công nhất. Rơ ràng đội ngũ những người biểu diễn chuyên nghiệp đóng vai tṛ là cầu nối đưa tác phẩm đến với công chúng một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, sự tham gia của các nhà sản xuất băng đĩa, các tổ chức phát sóng là hết sức quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiếp cận công chúng của tác phẩm: thay v́ chỉ giới hạn trong phạm vi những khán giả trực tiếp tới sân khấu để thưởng thức, vở kịch được truyền qua sóng phát thanh, truyền h́nh hay bài hát được ghi lại trên đĩa có thể tiếp cận với một khối lượng khán giả đông đảo hơn gấp nhiều lần.
    Vai tṛ của đội ngũ trung gian, hỗ trợ tác giả đưa tác phẩm đến với công chúng cần phải được đánh giá đúng mức, và một sự bảo vệ dành riêng cho bộ phận này nhằm chống lại việc sử dụng bất hợp pháp những đóng góp sáng tạo của họ là cần thiết. Xem nhẹ và không bảo hộ những người “liên quan” này không chỉ tác động trực tiếp đến quyền lợi của họ, mà c̣n làm suy giảm chất lượng truyền tải các tác phẩm nghệ thuật, tất yếu ảnh hưởng đến tác giả - do tác phẩm đă không được thể hiện đúng giá trị của nó, đồng thời tác động tiêu cực đến khả năng tiếp cận tác phẩm của công chúng. Những hiện tượng này không nên xuất hiện nếu một xă hội muốn hài ḥa lợi ích các bộ phận thành viên trong nó và phát triển toàn diện, bền vững.
    Việc tính đến lợi ích của nhóm người trung gian đưa tác phẩm tới công chúng ngày càng được chú ư cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và đă trở thành một yêu cầu bức thiết. Nếu như trước kia, người ta chỉ có một cách duy nhất để tận hưởng nghệ thuật tŕnh diễn, là phải trực tiếp đến rạp hát, sân khấu th́ sự xuất hiện của công nghệ ghi âm, phát sóng đă tạo điều kiện cho sự tiếp cận rộng răi của công chúng đối với những đóng góp sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ tŕnh diễn. Đặc biệt, mạng thông tin toàn cầu với công nghệ số đă cho phép mở rộng phạm vi cũng như nâng cao tốc độ truyền dẫn một cách đáng kinh ngạc, khiến việc tiếp cận càng trở nên chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Và không khó để nhận ra rằng, thay v́ hoàn toàn chấm dứt cùng với buổi biểu diễn như trước đây, sự tŕnh diễn của người nghệ sĩ ngày nay có thể được tái hiện lặp đi lặp lại với số lần không hạn chế, trước những đối tượng khán giả gần như không giới hạn, và trong những thời điểm hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của những người thưởng thức này. Chính những buổi phát sóng, bản ghi âm đó lại có khả năng cạnh tranh trực tiếp với sự tŕnh diễn trực tiếp của những diễn viên, bởi khán giả không nhất thiết phải đến chứng kiến buổi diễn trên sân khấu nữa. Điều đó đe dọa gây nên t́nh trạng thất nghiệp, hoặc ít nhất cũng làm giảm đáng kể thu nhập từ biểu diễn trực tiếp đối với các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Không dừng lại ở sự phổ biến dễ dàng đến công chúng, mà phần tŕnh diễn của họ c̣n có thể bị cắt xén, sửa đổi, sử dụng vào những mục đích mà họ không thể kiểm soát được – hiện tượng đó tiềm ẩn nguy cơ làm phương hại tới h́nh tượng, danh tiếng, sự nghiệp của người biểu diễn. Bởi vậy, cần phải xem xét bảo hộ quyền lợi của những người biểu diễn.
    Cũng chính sự phát triển của công nghệ đă thúc đẩy nhu cầu bảo hộ đối với những nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng. Sao chép băng đĩa một cách trái phép đang gia tăng chóng mặt và đă trở thành một vấn nạn toàn cầu. Không chỉ những tổ chức quy mô mới có khả năng làm băng đĩa lậu, mà sự tiện dụng ngày càng cao của các phương tiện ghi thu, lưu trữ cá nhân c̣n cho phép những người sử dụng riêng lẻ cũng có khả năng xâm phạm nhất định tới quyền lợi chính đáng của bộ phận sản xuất các bản ghi. Những nhà sản xuất này ngày càng ư thức rơ nhu cầu cấp thiết của việc được bảo hộ chống lại việc sao chép trái phép các chương tŕnh ghi âm của họ cũng như việc trả tiền thù lao để sử dụng các chương tŕnh này vào mục đích phát thanh, truyền h́nh hay các h́nh thức truyền tải khác tới công chúng. Và những nỗ lực vận động của họ không ngoài mục đích đạt được sự bảo vệ chính thức và hiệu quả được nhà nước ghi nhận bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện. Về phía các tổ chức phát sóng, lợi ích của họ cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi các chương tŕnh do họ biên tập, đầu tư làm ra bị phát lại bởi các tổ chức đồng nghiệp khác mà không có sự thỏa thuận và đền bù thỏa đáng. Do đó, cũng cần phải thiết lập một sự bảo hộ thích đáng dành riêng cho họ.
    Nhu cầu bảo vệ quyền của những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng như trên bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 20, và trở nên ngày càng gay gắt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi Cách mạng khoa học – công nghệ đă trở thành một đặc điểm nổi bật của t́nh h́nh thế giới. Và khi yêu cầu của thực tế xă hội đă h́nh thành th́ việc phản ánh và đáp ứng yêu cầu ấy bằng các quy định pháp luật là điều tất yếu. Cho đến nay, quyền lợi của đội ngũ những người trung gian kể trên đă được bảo hộ trên phạm vi quốc tế cũng như được ghi nhận trong rất nhiều các hệ thống pháp luật quốc gia, với tư cách các quyền liên quan đến quyền tác giả.
    1.2. Khái niệm quyền liên quan trong pháp luật Việt Nam:
    Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra tại khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: “Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi h́nh, chương tŕnh phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương tŕnh được mă hóa”.
    Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan cũng đă giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại khoản 2 Điều 3 về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là “các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi h́nh; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương tŕnh phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương tŕnh được mă hóa được quy định tại Điều 745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
    Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi h́nh và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương tŕnh được mă hóa. Điều này không trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước và sẽ được đề cập cụ thể hơn trong phần xem xét các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền liên quan tại Chương II.
    1.3. Khái niệm quyền liên quan trong khoa học pháp lư:
    Quyền liên quan đến quyền tác giả cũng như nhiều khái niệm khác trong khoa học pháp lư thường được hiểu theo hai phương diện:
    Thứ nhất, đó là các quyền nhân thân và quyền tài sản của các cá nhân, tổ chức thực hiện việc chuyển tải, truyền đạt tác phẩm tới công chúng thông qua việc biểu diễn tác phẩm, sản xuất bản ghi âm, ghi h́nh và phát sóng tác phẩm.
    Thứ hai, đó là tổng hợp các quy định pháp luật nhằm xác định và bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, tổ chức đối với cuộc biểu diễn tác phẩm; cá nhân, tổ chức sản xuất bản ghi âm, bản ghi h́nh; tổ chức phát sóng cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi h́nh, phát sóng tác phẩm.
    2. Đặc điểm của quyền liên quan:
    Là một lĩnh vực riêng biệt của sở hữu trí tuệ, quyền liên quan phân biệt với quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và đặc biệt là phân biệt với quyền tác giả bởi những điểm đặc trưng của nó. Quyền liên quan có các đặc điểm cơ bản như sau:
    2.1. Hoạt động của các chủ thể quyền liên quan chính là hành vi sử dụng tác phẩm đă có
    Đúng như tên gọi của nó, quyền liên quan có mối liên hệ mật thiết với quyền tác giả mà biểu hiện dễ thấy nhất là việc tác phẩm đă được tác giả sáng tạo chính là cơ sở để các chủ thể quyền liên quan tiến hành các hoạt động nghề nghiệp của ḿnh mà từ đó phát sinh các quyền này. Hành vi sáng tạo nghệ thuật làm phát sinh các quyền mà pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ cho người ca sĩ chính là việc tŕnh bày các ca khúc đă được sáng tác, với người nhạc công đó là sự thể hiện những bản nhạc đă được viết bởi các nhà soạn nhạc. Với diễn viên cũng vậy, dù là trong một vở kịch, một bài múa hay trước máy quay, diễn xuất của họ không thể không dựa trên một kịch bản có sẵn từ trước, mặc dù kịch bản ấy có thể chi tiết đến từng lời thoại, động tác hay dành rất nhiều “đất trống” cho người diễn viên tự do ứng biến bằng khả năng diễn xuất của ḿnh. Các nhà sản xuất băng đĩa càng không có ǵ để ghi thu lại một khi không có tác phẩm nào để người biểu diễn có thể tŕnh bày
    Đặc điểm này đôi khi c̣n được quy định trong quy định pháp luật cụ thể chứ không chỉ là nhận định của các nhà khoa học pháp lư. Ví dụ, Đạo luật về bản quyền, thiết kế và sáng chế năm 1988 của Anh nêu rơ: quyền của người biểu diễn được bảo vệ với tư cách quyền liên quan khi tác phẩm được tŕnh diễn đă được định h́nh trước khi cuộc biểu diễn được thực hiện[3]. Hệ quả là, những bài nói mang tính tùy hứng hay bài trả lời phỏng vấn không được coi là cuộc biểu diễn thuộc phạm vi bảo hộ của quyền liên quan[4]. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng như một số nước không có những quy định tương tự như vậy, nhưng rơ ràng hoạt động của những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi hay tổ chức phát sóng không thể tách rời những tác phẩm đă có.
    Hoạt động sử dụng những tác phẩm đă có của các chủ thể quyền liên quan là một dạng hoạt động sử dụng đặc thù, không thể t́m thấy ở các chủ thể khác cũng sử dụng tác phẩm. Tính đặc thù thể hiện ở mục đích, tính chất, kết quả của hành vi sử dụng. Công chúng sử dụng các tác phẩm chủ yếu nhằm các mục đích tinh thần mang tính chất cá nhân, ví dụ như đọc sách để giải trí, để nâng cao hiểu biết của ḿnh, xem tranh để thưởng thức nghệ thuật hội họa, hát một bài hát để tự thư giăn, giải tỏa những căng thẳng Trong khi đó, các nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi và tổ chức phát thanh, truyền h́nh đều hướng tới thỏa măn nhu cầu tinh thần của công chúng, và những mục tiêu của họ thông thường mang tính chất lợi nhuận và nghề nghiệp. Hành vi sử dụng của họ do đó cũng mang tính chuyên nghiệp và đ̣i hỏi những kĩ năng đặc biệt như chất giọng, khả năng diễn xuất, kĩ thuật ghi âm, phát sóng Kết quả việc sử dụng tác phẩm của các chủ thể quyền liên quan cũng là một điểm rất đặc biệt, đó là việc tạo ra những sản phẩm sáng tạo nghệ thuật mới nhưng không thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả, mà bản chất của nó là bước trung gian giữa tác phẩm nghệ thuật của tác giả với công chúng. Điểm này cho phép phân biệt hoạt động sử dụng tác phẩm trong phạm vi quyền liên quan với hoạt động sử dụng của tác giả các tác phẩm phái sinh trong lĩnh vực quyền tác giả. Để tạo ra những tác phẩm phái sinh, tác giả cũng tiến hành các hoạt động nghệ thuật dựa trên việc sử dụng tác phẩm đă có, và hành vi sử dụng này cũng thường mang tính nghề nghiệp, và mục đích lợi nhuận, đồng thời cũng đ̣i hỏi những kĩ năng nhất định. Ví dụ, việc dịch một tác phẩm văn học sang ngôn ngữ khác thường được tiến hành bởi những người dịch thuật chuyên nghiệp với tŕnh độ ngoại ngữ và khả năng diễn đạt tốt, và đa phần họ đều kí kết hợp đồng với các nhà xuất bản để nhận thù lao từ hoạt động này. Nhưng những nhà dịch thuật không được coi là chủ thể quyền liên quan v́ kết quả hoạt động sáng tạo của họ ở đây là một tác phẩm nghệ thuật mới (bản dịch một tác phẩm) – đây là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Trong khi đó, cuộc biểu diễn của nghệ sĩ hay một bản ghi âm bài hát lại không phải là một tác phẩm với tư cách đối tượng bảo hộ của quyền tác giả, mà là sự tŕnh bày, thể hiện tác phẩm hoặc sự lưu định lại trên bản ghi âm phần tŕnh bày, thể hiện ấy.
    Như vậy, hoạt động của chủ thể quyền liên quan là hành vi sử dụng tác phẩm đă có, đó là một sự sử dụng đặc biệt, mang tính sáng tạo nghệ thuật nhất định, tạo nên cầu nối đưa tác phẩm đến với công chúng. Do đặc điểm này, chủ thể quyền liên quan được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ quyền lợi bằng một nhóm những quy định riêng biệt. Tuy nhiên, trong quá tŕnh sử dụng tác phẩm, các chủ thể này vẫn phải tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm mà họ sử dụng theo quy định pháp luật như mọi chủ thể có hành vi sử dụng tác phẩm khác.
    2.2. Đối tượng quyền liên quan được bảo hộ khi có tính nguyên gốc
    Tính chất này của đối tượng quyền liên quan được xem xét trên hai phương diện chủ yếu sau:
    Thứ nhất, tính nguyên gốc được xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của chủ thể.
    Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác phẩm đă có từ trước không ảnh hưởng tới tính nguyên gốc của các đối tượng mà nó bảo hộ. Không khó để nhận ra rằng, sự tŕnh diễn của người nghệ sĩ là kết quả của những cống hiến nghệ thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn sẽ thể hiện theo cách của riêng ḿnh, thậm chí cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo và mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đ̣i hỏi việc sử dụng ấy cũng phải được pháp luật bảo vệ.
    Thứ hai, tính nguyên gốc của quyền liên quan c̣n được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên.
    Việc xác định tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các bản ghi, chương tŕnh phát thanh truyền h́nh. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi h́nh chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi h́nh lần đầu âm thanh, h́nh ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, h́nh ảnh khác; quyền liên quan đối với tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng. Theo đó, trong trường hợp: một công ty ghi âm kư hợp đồng thu âm phần biểu diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disk), sau đó một công ty khác sao chép lại đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, th́ ta sẽ có hai dạng bản ghi âm cho cùng một phần tŕnh diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất được coi là có tính nguyên gốc (là sự định h́nh lần đầu) và là đối tượng bảo hộ của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ hai không đảm bảo tính nguyên gốc và không những không được bảo hộ mà c̣n bị coi là hành vi xâm phạm quyền liên quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm mà sẽ bị xử lư theo quy định pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đă đầu tư tài chính và các điều kiện cần thiết để làm một chương tŕnh truyền h́nh, hoặc đă mua bản quyền phát sóng trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó . th́ việc phát sóng các chương tŕnh đó của họ được xác định là thoả măn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng quyền liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng thời, hoặc phát lại các chương tŕnh này th́ việc phát sóng của tổ chức thứ hai này là không có tính nguyên gốc và cũng như trường hợp trên, bị xác định là hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ.
    Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm đă có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, th́ tính nguyên gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan được pháp luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính nguyên gốc được thoả măn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi quyền liên quan, chủ thể của quyền liên quan, và ngược lại, việc không đảm bảo tính nguyên gốc đó là căn cứ để nhận định đă có hành vi xâm phạm đến quyền liên quan.
     
Đang tải...