Tiến Sĩ Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 15/4/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
    NĂM 2014

    MỤC LỤC
    Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1
    Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
    Phần 3: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31
    CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 31
    1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 31
    1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 42
    1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài 66
    CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 80
    2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 80
    2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 112
    CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 137
    3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 137
    3.2. Một số giải pháp 143
    KẾT LUẬN 163
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    PHỤ LỤC

    Phần 1
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng - Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các quyền cơ bản đó, QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng và vì thế việc nghiên cứu làm sáng tỏ những giá trị cao quý về QCN, nhất là các quyền nêu trên đều được quan tâm nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học.
    Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ CCTP. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về CCTP đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành, các cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp. Qua đó, hệ thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước được nâng cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công tác xét xử được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
    Sau tám năm thực thi chiến lược CCTP, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhận xét bước đầu quá trình cải cách đã thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, hướng tới xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo đảm QCN nhất là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo nói chung và của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có hạn chế, sai sót. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực tiễn vận dụng do xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan nên chất lượng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết những vụ án không đạt hiệu quả cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.
    Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu về QBC trở nên cấp thiết hơn nữa khi Hiến pháp 2013 bên cạnh việc xác định nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án cũng đã xác định QBC là một trong các QCN, quyền cơ bản của công dân. Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật TTHS 2003 đã dành một chương riêng (chương ***II) quy định về thủ tục đối với người
    CTN. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, của người bào chữa (NBC) đối với những vụ án có người CTN phạm tội. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối với người CTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận
    thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có
    những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN.
    Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân một phần là do cơ quan THTT chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người
    CTN phạm tội và một phần do nhận thức của một bộ phận cán bộ những người THTT còn xem nhẹ vai trò CCTP, thậm chí do lợi ích cục bộ, không chấp hành nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn trọng và xem nhẹ quyền lợi của bị can, bị cáo là người CTN.
    Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay là hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận án Tiến sĩ.
    2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    2.1. Mục đích nghiên cứu

    Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp cận trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can bị cáo là người CTN.
    2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái gì thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để đạt được mục tiêu.
    Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
    Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất lượng của quy định pháp luật về quyền này.
    Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng.
    Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo thực thi quyền này.
    Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
    Thứ năm, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi
    quyền này.
    3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
    3.1. Phạm vi nghiên cứu

    Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên cứu trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu. Về mặt thời gian:
    - Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định pháp luật về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945.
    - Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ trước năm 2009 đến năm 2012.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...