Tiến Sĩ Quy trình ứng dụng Internet Marketing tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 18/3/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
    NĂM 2014
    MỤC LỤC
    LỜI CAM ĐOAN i
    MỤC LỤC . ii
    DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT VÀ THUẬT NGỮ iv
    DANH MỤC BẢNG vi
    DANH MỤC HÌNH vii
    PHẦN MỞ ĐẦU . . 1
    1. Tính cấp thiết của đề tài . 1
    2. Bối cảnh nghiên cứu 5
    3. Mục đích nghiên cứu . 8
    3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát . 8
    3.2. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu cụ thể . 9
    4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu . 10
    5. Phương pháp nghiên cứu . 13
    5.1. Phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu của luận án . 13
    5.2. Nguồn dữ liệu của luận án 13
    6. Kết quả và những đóng góp mới của Luận án . 18
    6.1. Những kết quả đạt được của luận án 18
    6.2. Những đóng góp mới của Luận án . 18
    7. Kết cấu của luận án . 20

    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT VỀ
    QUY TRÌNH VÀ CÁCH THỨC ỨNG DỤNG INTERNET MARKETING . 22
    1.1. Các cách hiểu về IM và phạm vi của IM . 22
    1.1.1. Các khái niệm về IM . 22
    1.1.2. Đặc điểm cơ bản của IM: tính tương tác và tính cá nhân hoá . 26
    1.1.3. Các khái niệm có liên quan 28
    1.1.4. Vai trò, khả năng ứng dụng và lợi ích của việc ứng dụng IM 32
    1.2. Các nghiên cứu ứng dụng IM điển hình trên thế giới 39
    1.2.1. Mô hình e-Marketingthương mại điện tử 40
    1.2.2. Mô hình 4S web – Marketing 44
    1.2.3. Mô hình hành vi người tiêu dùng trên Internet và Marketing mix 48
    1.2.4. Mô hình chiến lược IM 51

    CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT VỀ THỰC TRẠNG LÀM CƠ SỞ
    ĐỂ XÂY DỰNG QUY TRÌNH ỨNG DỤNG INTERNET MARKETING Ở VIỆT NAM 56
    2.1. Thiết kế nghiên cứu 56
    2.1.1. Khung nội dung nghiên cứu 56
    2.1.2. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu cụ thể 59
    2.1.3. Quy trình và phương pháp thực hiệnnghiên cứu khảo sát . 59
    2.2. Kết quả nghiên cứu vềthực trạng ứng dụng Internet Marketing tại
    cácdoanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam . 66
    2.2.1. Điều kiện ứng dụng IM của các doanh nghiệp 66
    2.2.2. Nhận thức về Internet Marketing của các DN . 69
    2.2.3. Hành vi ứng dụng Internet Marketing của các DN . 84

    CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH ỨNG DỤNGINTERNET
    MARKETINGCHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM . 108
    3.1. Mô hình Quy trình ứng dụng Internet Marketing vào thực tiễn kinh
    doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam . 108
    3.1.1. Khái quát về mô hình . 108
    3.1.2. Lý do và căn cứ đề xuất . 109
    3.2. Nội dung cụ thể các bước của quy trình ứng dụng IM . 113
    3.2.1. Phân tích môi trường hoạt động của Marketing 113
    3.2.2. Phân tích khách hàng . 115
    3.2.3. Xác lập các mục tiêu và chiến lược Marketing . 116
    3.2.4. Phát triển các chính sách E- Marketing mix, chiến lược nội dung, sự hiện
    diện điện tử và quản trị quan hệ khách hàng trực tuyến 118
    3.2.5. Lên kế hoạch hành động; Tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá . 131
    3.3. Những giải pháp hỗ trợ và kiến nghị . 133
    3.3.1. Giải pháp về xây dựng hệ thống thông tin IM trong DN 133
    3.3.2. Những đề xuất vĩ mô với các ban ngành có liên quan để xây dựng môi
    trường thuận lợi cho việc ứng dụng IM . 142
    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 149
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
    PHỤ LỤC 159
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Kể từ khi xuất hiện đến nay, Internet – xa lộ thông tin toàn cầu được thiết lập
    dựa trên cơ sở tự do truy nhập – đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của thế giới và mọi
    mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, với 34.3%dân số thế giới sử dụng mạng Internet
    (tăng trưởng người dùng từ năm 2000 đến năm 2012 đạt 566.4% [95]), Internet thực
    sự đã thâm nhập rất sâu vào đời sống xã hội, không phân biệt lứa tuổi, màu da, sắc
    tộc . Với Internet, thế giới đã trở nên “không còn khoảng cách”. Nhờ vào nó, người
    tiêu dùng (NTD) ở khắp nơi trên Trái đất có thể có cơ hội để hiểu và tiếp cận với
    sản phẩm (SP) của mọi nhà cung cấp, so sánh, đánh giá và lựa chọn một SP phù
    hợp nhất với mình [63]. Internet đã và đang tác động làm thay đổi một cách căn bản
    đến sự hình thành ước muốn và hành vi tiêu dùng của khách hàng (KH), thông qua
    việc tạo ra cho họ một môi trường xã hội mới có tính tương tác và tính kết nối cộng
    đồng rất cao cùng với một nguồn thông tin khổng lồ luôn sẵn có. Cũng nhờ vào nó,
    KH đã tiếp cận đến những cách thức mua sắm và tiêu dùng mới theo xu hướng làm
    cho cuộc sống ngày càng tiện nghi hơn và tốt đẹp hơn.Tất cả những điều đó có
    nghĩa là: nhu cầu và hành vi của NTD đã thay đổi, nhờ có Internet và do Internet.
    Sử dụng Internet ngày càng trở nên một thói quen không thể thiếu trong đời sống xã
    hội con người. Các giới quan sát cho rằng, chỉ trong một thời gian rất ngắn nữa
    Internet sẽ trở nên phổ biến như ti vi hiện nay. Nó đang góp phần làm thay đổi thói
    quen, cách thức suy nghĩ và sinh hoạt, trong đó có hoạt động mua sắm của NTD. Để
    có thể sáng tạo và chuyển giao giá trị cho KH, khi nhu cầu và hành vi của KH thay
    đổi, hoạt động kinh doanh và Marketing tất yếu đòi hỏi phải thay đổi một cách phù
    hợp tương ứng.
    Nhận thức được sự phổ biến và vai trò của Internet, cũng như tác động của
    Internet đến việc làm thay đổi hành vi và nhu cầu của KH, từ đầu những năm 2000,
    các nhà hoạt động thực tiễn đã nghiên cứu và phát triển cách thức ứng dụng Internet
    vào hoạt động Marketing, sau đó các nhà nghiên cứu đã tổng kết và khái quát hóa
    những cách thức ứng dụng này, từ đó làm xuất hiện một nhánh mới trong khoa học
    Marketing hiện đại với tên gọi là Internet Marketing (IM)(hay còn gọi là Online
    Marketing, dịch ra tiếng Việt là Marketing trực tuyến). Ngay từ khi ra đời tại các
    nước phát triển, IM đã trở thành một hình thức Marketing phổ biến và đem lại
    những khoản lợi nhuận khổng lồ cho các doanh nghiệp (DN) vận dụng nó. Nhờ
    những lợi thế cơ bản của Internet mang lại cho hoạt động kinh doanh nói chung và
    Marketing nói riêng – như khả năng cập nhật, tốc độ phản ứng rất nhanh và chi phí
    thấp, hiệu quả cao – Marketing trực tuyến đã được thực tế chứng minh và được
    công nhận là rất hiệu quả.
    Việt Nam (VN) được đánh giá là một nước có tiềm năng cao trong việc phát
    triển hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) nói chung cũng như các hoạt động kinh
    doanh trực tuyến nói riêng, với hơn 31 triệu người dùng – tương đương 33.9% dân
    số [95]. Cùng với định hướng đầu tư của Chính phủ [3] thì có thể nói rằng chắc
    chắn trong một tương lai không xa, NTDVN sẽ hoàn toàn quen thuộc với việc sử
    dụng Internet. Theo cùng với đó, đời sống, hành vi và nhu cầu của họ chịu sự tác
    động của Internet cũng đã và đang có những sự thay đổi rất mạnh. Thích nghi với
    điều này, các DNVN cũng đã tự điều chỉnh các hoạt động Marketing của mình theo
    hướng mà họ cho là phù hợp.
    Quá trình tự phát ứng dụng IM của các DNVN diễn ra vào những năm 2002-
    2003 đã không mang lại kết quả tốt, như đã được chỉ ra trong các báo cáo TMĐT
    hàng năm do Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) nghiên cứu và thực hiện:
    các website không có KH ghé thăm hay thực hiện giao dịch, hiệu quả truyền thông
    hay bán hàng qua Internet của các DN là rất thấp Theo như các phân tích, nguyên
    nhân của kết quả đó là do các hoạt động TMĐT nói chung không được nhận thức
    đúng đắn, dẫn đến việc các DN đã ứng dụng sai hoặc hạn chế. Chẳng hạn như là
    việc các DN vẫn nhìn nhận Website hay các trang con (microsites) trên mạng chỉ là
    một nơi truyền thông một chiều đến một số ít KH, do đó họ chỉ đưa các thông tin
    mang tính giới thiệu và địa chỉ liên hệ lên website “tĩnh”, thông tin không được
    quan tâm làm mới hay được cập nhật thường xuyên, không có các liên kết dẫn trong
    và ngoài để dẫn KH đến với website Những năm tiếp theo và cho đến hiện nay,
    cùng với sự phát triển của Internet và công nghệ thông tin (với bước ngoặt điển
    hình là sự ra đời và bùng nổ của thế hệ web 2.0 – web tương tác hay web giao tiếp
    xã hội), nhận thức của các DN có phần được cải thiện hơn, nhưng các báo cáo
    TMĐT vẫn tiếp tục chỉ ra rằng chỉ có rất ít DN ứng dụng hiệu quả các công cụ
    TMĐT nói chung và IM nói riêng [5-9]. CácDN bắt đầu thấy là mình cần thực hiện
    IM nhưng lại đang rất lúng túng trong việc thực hiện như thế nào, dẫn đến sự ra đời
    của một loạt các khóa giảng dậy áp dụng và thực hành các công cụ của IM được
    cung ứng trên thị trường (TTr). Tuy nhiên, do đặc thù của các hoạt động IM là đều
    có liên quan đến yếu tố kỹ thuật và công nghệ thông tin (CNTT), nên phần lớn
    trong số các khóa học ứng dụng đó lại thường là do các công ty dịch vụ Internet
    giới thiệu để thu hút KH (là các DN và tổ chức có nhu cầu ứng dụng IM) đến mua
    các dịch vụ của mình. Nhờ vào kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy cũng như làm
    thực tiễn trong 15 năm liên tục về Marketing, tác giả nhận thấy gần tất cả các khoá
    học ứng dụng đóít mang tính chất học thuật hay tư duy chiến lược mà thường nhìn
    từ góc độ kỹ thuật thực hiện các công cụ của IM, kết quả là dẫn đến việc tách biệt
    chúng ra khỏi các hoạt động chiến lược Marketing, hoặc nếu có chỉ đơn thuần nhìn
    nhận chúng là một phương tiện truyền thông mà thôi. Hầu hết các khoá học về IM
    đang được cung ứng trên thị trường cho đến hiện nay (2013) đều đi theo cách tiếp
    cận từ từng công cụ của IM có thể làm gì, làm như thế nào, chứ không nhìn một
    cách tổng thể - hay nói cách khác, đó là “thấy cây mà không thấy rừng”. Chính do
    cách nghĩ này mà thường các DN chỉ nghĩ đến việc thực hiện các công cụ IM khi có
    một sự kiện cần truyền thông, và áp cho nó cái nhìn của Marketing truyền thống đối
    với một phương tiện truyền thông, chứ không đặt nó trong tổng thể các biện pháp
    được thực hiện một cách có hệ thống và/hoặc không ứng dụng chúng theo các quy
    tắc riêng của IM. Kết quả là các công cụ đó đã không phát huy được tác dụng như
    tiềm năng của chúng. Bên cạnh đó, cách nghĩ này đã khiến các DN nghĩ rằng việc
    thực hiện IM là một vấn đề kỹ thuật rất khó khăn, khá đắt đỏ, cần phải đi thuê đơn
    vị chuyên môn bên ngoài thực hiện, đồng thời khi thuê ngoài thực hiện thì họ không
    biết nên nêu yêu cầu hay quản lý như thế nào cho đúng đắn.
    Thực tế đó cho thấy rằng các DNVN rất cần có một bộ lý thuyết làm “kim
    chỉ nam” cho các hoạt động IM của mình đi đúng hướng và phát huy hiệu quả. Đáp
    ứng nhu cầu đó, các trung tâm đào tạo bắt đầu tìm đến các khung lý thuyết về IM
    của nước ngoài và đưa vào giảng dạy. Và trong thực tế là đã có rất nhiều khung lý
    thuyết rất khác nhau được đưa về giảng dạy - có thể dễ dàng nhận thấy điều này
    ngay khi thực hiện việc tìm kiếm với cụm từ “Internet marketing”, thông qua một
    công cụ tìm kiếm trên Internet như Google chẳng hạn.
    Nói về lý thuyết IM trên thế giới – đặc biệt là ở các nước phát triển - nó đồng
    thời cũng được biết đến với rất nhiều tên gọi khác nhau như Marketing trực tuyến,
    Marketing trên mạng Internet, Marketing điện tử Mặc dù có nhiều tên gọi khác
    nhau như vậy, nhưng về cơ bản chúng đều mang cùng nghĩa, đó là nghiên cứu về
    “cách thức làm Marketing trên mạng Internet”, mà khởi điểm của nó chính là việc
    “ứng dụng công cụ Internet vào làm kinh doanh và Marketing”. Bắt đầu từ những
    hoạt động sơ khai như việc ứng dụng Internet trong hoạt động giao tiếp, truyền
    thông đến với KH, dần dần đến các hoạt động giao dịch kinh doanh, bán hàng, phân
    phối SP, chuyển giao các lợi ích gia tăng , cho đến việc ứng dụng Internet vào tất
    cả các hoạt động Marketing khác như nghiên cứu TTr, xây dựng cộng đồng thương
    hiệu (TH), quản trị mối quan hệ KH . Điều này là do sự phát triển của thực tế:
    cùng với sự phát triển của CNTT, hiện nay Internet có thể mang đến cho DN một
    cộng đồng người dùng hay KH hoàn toàn riêng biệt so với các KH truyền thống,
    đồng thời họ có những nhu cầu, hành vi và cách ứng xử có thể rất khác biệt; do đó,
    thay vì cách tiếp cận “ứng dụng Internet vào Marketing” thì ngày nay các nhà nghiên
    cứu và ứng dụng lại ưu dùng cách tiếp cận “đưa các hoạt động Marketing lên môi
    trường Internet”, theo nghĩa coi Internet như một môi trường ứng dụng các hoạt
    động Marketing theo các quy tắc riêng của môi trường đó.
    Tuy nhiên, trong thực tế là đã có rất nhiều các DN và tổ chức ứng dụng IM
    mà mỗi hoàn cảnh ứng dụng sẽ dẫn đến một cách thức ứng dụng khác nhau, từ đó
    hình thành nên các cách thức hoạt động Marketing trên mạng Internet khác nhau.
    Mỗi cách thức này, qua thời gian hoạt động đều đã dần bộc lộ những ưu điểm và cả
    những hạn chế của nó.
    Những đóng góp mới về mặt học thuật và lý luậnTổng hợp và xác định được 4 quy trình ứng dụng Internet Marketing điển hình trên thế giới hiện nay, bao gồm(1) E-marketing thương mại điện tử;
    (2) 4S web – marketing;
    (3) Hành vi người tiêu dùng trên Internet và marketing - mix;
    (4) Mô hình chiến lược Internet Marketing.
    Trong đó mỗi quy trình đã xác định các bước, các công cụ sử dụng, mối quan tâm chủ yếu, đồng thời phân tích ưu điểm và hạn chế về khả năng triển khai ứng dụng quy trình đó tại Việt Nam.Những đóng góp mới về mặt thực tiễn
    - Dựa trên điều tra thực tế, phát hiện được những nguyên nhân cơ bản nhất ảnh hưởng đến sự hạn chế trong ứng dụng Internet Marketing tại đa số các DN vừa và nhỏ của Việt Nam, bao gồm:+ Hiểu sai lệch hoặc không đầy đủ về bản chất, vai trò, tác dụng, điều kiện ứng dụng và các công cụ của Internet Marketing.
    + Hạn chế về khả năng tự thực hiện hoạt động Internet Marketing, cũng như khả năng quản lý trong trường hợp thuê bên ngoài thực hiện.
    + Xu hướng tách rời việc quản lý hoạt động Internet Marketing ra khỏi chiến lược Marketing và các hoạt động Marketing trong môi trường thực tế.
    - Từ kết quả điều tra, phát hiện rằng doanh nghiệp nào càng hiểu đúng và đủ về Internet Marketing thì càng ứng dụng đúng và mang lại kết quả cao hơn, do đó càng sẵn sàng đầu tư cho hoạt động này và ngược lại.Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu- Quy trình ứng dụng Internet Marketing phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và bối cảnh của Việt Nam, trong đó có các điểm mới so với các quy trình hiện tại là:+ Ứng dụng sự thấu hiểu về khách hàng và hành vi khách hàng vào tất cả các bước trong quy trình.
    + Phối hợp các bước và công cụ của marketing truyền thống với các bước và công cụ marketing trên Internet.
    + Chiến lược nội dung và quản lý sự hiện diện điện tử.
    - Cách thức xây dựng, sắp xếp và khai thác hệ thống thông tin Marketing điện tử, trong đó nhấn mạnh vào 2 nội dung quan trọng:(1) sử dụng Internet để thu thập thông tin về hành vi khách hàng ở tất cả các điểm tiếp xúc;
    (2) sử dụng các biện pháp nghiên cứu Marketing trong môi trường Internet.
     
Đang tải...