Tiểu Luận Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A – PHẦN MỞ ĐẦU

    Từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất cho đến nay đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là : Công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô nệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Qua mỗi thời kỳ tư duy và nhận thức của con người cũng không dừng lại ở một chỗ, mà theo thời gian tư duy của con người ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Chính sự thay đổi về tư duy và nhận thức đã kéo theo những sự thay đổi về sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như cơ sơ sản xuất. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt với những kỹ thuật lạc hậu thì nay với sự phát triển của khoa hoc kỹ thuật đã đạt tới đỉnh cao dẫn tới sự phát triển vượt bậc trình độ sản xuất, không ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã đổ sức, bỏ công cho các vấn đề này, cụ thể là nhận thức con người, trong đó có 3 trường phái triết học trong lịch sử là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác và Ăng Ghen vươn nên đỉnh cao trí tuệ nhân loại không chỉ trên phương diện triết học mà cả chinh trị, kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức của hai ông về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
    Nghiên cứu về sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được một nhận thức về sản xuất xã hội. Đồng thời giúp chúng ta mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế. Thấy được vị trí cũng như ý nghĩa của nó. Đây cũng chính là lý do khiến cho một sinh viên học về lĩnh vực kinh tế như Em chọn đề tài “sự vận dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước hiện nay




    B – PHẦN NỘI DUNG
    CHƯƠNG I
    SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ
    PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
    I. ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

    1. Lực lượng sản xuất
    Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn,phất triển của con người.
    Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Hay nói cách khác lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất :
    + Tư liệu sản xuất gồm có : đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là những cái mà con người tác động vào để cải tạo chúng thành các sản phẩm phục vụ cho đời sống của mình như đất đai, tài nguyên, khoán sản; hoặc những đối tượng đã trải qua quá trình lao động của con người, nhưng chưa thành sản phẩm cuối cùng (nguyên vật liệu). Còn tư liệu lao động gồm: công cụ lao động là những cái con người dùng để truyền sức lao động vào đối tượng lao động để biến đổi chúng thành những sản phẩm lao động nhất định và những phương tiện vật liệu khác phục vụ quá trình sản xuất như nhà xưởng, bến bãi Trong các yếu tố trên thì công cụ lao động được coi là yếu tố quan trọng nhất, linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất.
    + Người lao động : đây được coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình sản xuất, người lao động dùng trí thông minh cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm lao động luôn luôn không ngừng biến đổi công cụ lao động để đạt năng suất lao động cao nhất và ít hao tổn sức lực nhất.
    Ở nước ta từ trước đến nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật còn kém phát triển. Hiện thời đại chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất, vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong thời gian khá dài những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy đại hội lần thứ VI của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ là phải: “giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có, mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để phát huy nguồn nhân lực bên trong.
    2. Quan hệ sản xuất.
    Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội. Trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật rồi. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
    + Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa con người đối với tư liệu sản xuất.
    + Các chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hóa và hợp tác hoá lao động hay quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
    + Chế độ phân phối sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng,nâng cao phục lợi người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
    Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất thì vấn đề quan trọng mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối không nên coi trong một mặt nào cả. Thực tế lịch sử đã cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm đảm bảo cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống của con người cũng được cải thiện và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định thì quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sử tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế – xã hội mới.
    Trong lịch sử mỗi hình thái kinh tế xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị điển hình còn tồn tại những quan hệ phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Tất cả đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng khác nhau, các ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như Mác nhận xét : “Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa được chín muồi .” phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra được điều kiện vật chất trên.
    3. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
    Bắt nguồn từ nhận thức về qui luật phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, đồng thời xuất phát từ những điều kiện mới của thực tế lịch sử hiện nay có thể khẳng định các nước chậm phát triển cũng có khả năng tiến lên CNXH tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của mình. Khả năng quá độ lên CNXH này thường đợc gọi là con đường quá độ gián tiếp lên CNXH, con đường bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường phát triển theo khả năng này còn được gọi là con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo kinh nghiệm thực tế của Lênin đây là một con đường khá lâu dài phải trải qua nhiều bước trung gian, phát triển qua đấu tranh giai cấp rất phức tạo. Sự đi lên phải có ủng hộ và giúp đỡ bên ngoài kể cả cơ sở sản xuất. Trước hết trong nước đó cần có một Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, một đảng có quan hệ mật thiết "sống còn" với dân. Từ đó tổ chức áp dụng lãnh đạo trong đó có cả vận dụng qui luật sản xuất phù hợp với nước đó một cách tích cực để không ngừng tiến bước.
    II. QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
    1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.
    Như mác đã nói “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống cuả mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quy luật này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ .” người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
    Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất, từ đó hình thành những mối quan hệ chủ yếu, cơ bản là mối liên hệ giữa tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa giữa hai yếu tố cơ bản này là gì ? Phù hợp hay không phù hợp ? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau :
    + Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập
    + Phù hợp còn là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
    Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng la tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển. Vì thế có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là là quy luật mâu thuẫn,sự phù hợp giữa chúng chỉ là yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển, mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của quy luật kinh tế.
    2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lợc lượng sản xuất.
    Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy mạnh quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc sai lầm của tư tưởng này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp quy luật khách quan. Về mặt phương pháp luật, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Nhưng khi thực hiện người ta quên rằng sự "chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời nhưng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
    + Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: Lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược laị.
    + Sự tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và nhưng thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mãnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quy đụnh muc đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động . Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao đông quốc tế.

    CHƯƠNG II

    SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC


    I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
    Từ năm 1975 sau khi giành được độc lập và thống nhất đất nước chúng ta đã đi lên xã hội chủ nghĩa với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm năng mọi mặt còn non trẻ, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, và do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do đề cao vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ sản xuất, và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hưu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Và xét về thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những phân tích trên. Trên con đường tìm tòi lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta. Có những hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản lý kém, tham ô, tham nhũng, , Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế – xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan, cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những mặt tiêu cực trên là cần thiết, nhưng trên thực tế chúng ta chưa thực hiện tốt các nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới và với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn bán tự do rộng rãi, có lợi cho sự phát triển sản xuất. Cách đây không lâu các nhà báo của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng “với một người có bằng cấp về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế. Ông có thể đưa đất nước Việt Nam tiến nên không” trả lời phỏng vấn Tổng bí thư khẳng định rằng “Việt Nam chúng tôi khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh tế giỏi ”, và Ông còn khẳng định và không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ nghĩa tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam mà vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở đòi hỏi các bên cùng có lợi, và như vậy cho phép phát triển nền kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà còn phát triên chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng quan trọng là phải nhận thức được vai trò thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này cần phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiên phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
    II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
    3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tình độ phát triển của các lực lượng sản xuất
    a. Vị trí
    Là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội, bởi vì nó là quy luật của sự vận động phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự tác động của quy luật này dẫn đến sự biến đổi của phương thức sản xuất. Và đây cũng chính là đề tài mà chúng ta nghiên cứu để làm rõ sự ảnh hưởng của nó đến đời sống sản xuất của con người.
    Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị năm 1959 Các Mác viết "trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ từ những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhát định của lực lượng sản xuất vật chất của họ.
    b. Khái niệm lực lượng sản xuất
    Là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật công nghệ của một quá trình sản xuất nhất định nào đó, nó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người, bao gồm 2 nhóm cơ bản
    - Tư liệu sản xuất
    Công cụ lao động là yếu tố phản ánh rõ nhất trình độ con người chinh phục tự nhiên như thế nào
    - Người lao động
    Trong lao động sản xuất hiện đại tri thức kỹ năng của người lao động ngày càng quan trọng. Như Lênin đã viết "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" (Lênin toàn tập).
    Trong hai nhóm trên nhân tố người lao động là quan trọng nhất bởi vì các tư liệu sản xuất đều là sản phẩm của lao động, những tư liệu đó chỉ có tác dụng, có giá trị trong sản xuất một khi được người lao động sử dụng, cũng chính vì vậy trong xã hội cong nghiệp hiện đại thì lực lượng sản xuất số một là người công nhân công nghiệp, nhu cầu của 1 nền sản xuất hiện đại cùng sự phát triển của khoa học công nghệ, các tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, nó không phải là nhân tố thứ 3 kết tinh trong tư liệu sản xuất, vá người lao động thông qua các quá trình sáng chế kỹ thuật, sáng chế kỹ thuật phải thông qua nhân tố người lao động.


    c. Khái niệm quan hệ sản xuất
    Quan hệ sản xuất là mối quan hệ sản xuất giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất quan hệ sản xuất này được phân tích trên 3 phương diện
    - Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quan hệ quyết định các mối quan hệ khác.
    - Quan hệ tổ chức quản lý, vi mô, vĩ mô, tuỳ thuộc vào quan hệ sản xuất, thực chất là lớp quan hệ tổ chức kết hựop giữa tư liệu sản xuất với sức lao động trong các quá trình sản xuất cụ thể
    - Phân phối sản phẩm tuỳ thuộc vào mối quan hệ sở hữu người công nhân sở hữu sức lao động, người chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
    - Vai trò của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
    Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định với quan hệ sản xuất bởi vì lực lượng sản xuất là nhân tố thuộc nhân tố nội dung vật chất, đảm bảo cho sự duy trì kết hợp các quá trình sản xuất. Tính quyết định đó thể hiện với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có nó đòi hỏi các quan hệ sở hữu cách thức giải quyết và mộ chế độ tương ứng với nó những biến đổi trong lực lượng sản xuất đặt ra nhu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
    Vì vậy, yêu cầu cơ bản của quy luật này trong việc quy định hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất thì phải căn cứ vào thực trạng của nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất, mỗi người cần liên hệ thực tiễn quan hệ sản xuất
    Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như Các mác nhận xét "không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi"
    d. Vai trò của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
    Quan hệ sản xuất giữ vai trò là các hình thức kinh tế của các quá trình sản xuất, nó có vai trò tác động đến việc sử dụng khai thác, sử dụng phát triển các lực lượng sản xuất như thế nào, có thể là tích cực khi phù hợp với nhu cầu của lực lượng sản xuất, có thể tác động tiêu cực trong trường hợp không phù hợp.
    Biện chứng của mối quan hệ trên được thể hiện theo logic sau đây lực lượng sản xuất là yếu tố động cách mạng, lao động sản xuất là yếu tố tính chậm phát triển, chính điều đó tạo khả năng mâu thuẫn giữa hai mặt của những phương thức sản xuất, mâu thuẫn này bộc lộ rõ khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến 1 giới hạn nhất định nó đặt ra nhu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất, sự thay đổi này chỉ thực hiện được thông qua các cuộc cách mạng do đó tạo sự biến đổi của phương thức sản xuất xã hội.
    II. VIỆP ÁP DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
    1. Quan hệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam
    Như chúng ta đã biết các quan hệ sản xuất ở nước ta rất phong phú đa dạng, do điều kiện địa lý đất nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam dẫn đến điều kiện khí hậu, sông ngòi, sự phân bố dân cư giữa các vùng trong cả nước rất khác nhau dẫn tới mối quan hệ sản xuất rất đa dạng mang yếu tố đặc thù. Miền Nam do có lượng nước dồi dào rất phát triển về trồng trọt có tổng sản lượng cao nhất, miền Bắc do là vùng tập trung đông dân cư và có truyền thống canh tác lâu đời nên sản xuất có sản lượng lớn, miền Trung có khí hậu khắc nghiệt thường xuyên có bão lũ nền không phát triển được như hai miền Bắc và Nam, chỉ nói về mặt nông nghiệp phần nào cho ta thấy sự khác biệt rõ rệt về mối quan hệ sản xuất ở 3 miền với những đặc thù riêng.
    a. Những quan hệ sản xuất ở Việt Nam
    Nền kinh tế hàng hoá ở ta là một nền kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước khuyến khích phát triển nhằm đa dạng hoá các quan hệ sản xuất của Nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng phục vụ các nhu cầu thiết yếu của đời sống.
    Như điện, nước, các công trình công cộng Đối với cách thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển, nhưng với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp từ chính sách của Nhà nước để quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thực hiện quan điểm từ Đại hội VI khi khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước.
    b. Sự hình thành quan hệ sản xuất trong nền kinh tế ở nước ta
    Như ta đã biết trước đây nước ta là một nước phong kiến kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp. Sau nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, hàng hoá tuy có phong phú hơn trước đây nhưng vẫn không có các ngành sản xuất ở trình độ khoa học, hàng hoá chủ yếu phục vụ cho các nhu cầu cơ bản của đời sống. Sau một thời gian ngắn hoà bình, đất nước ta bước vào cuộc đấu tranh khốc liệt với đế quốc Mỹ với mục tiêu thống nhâtý đất nước. Bước ra từ hai cuộc chiến tranh ác liệt nền kinh tế sản xuất của ta gần như không có gì, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học kém phát triển, sau khi giành độc lập nước ta chủ trương quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa nhưng không qua tư bản chủ nghĩa, nhưng do trong thời gian đó chúng ta đã có những quan niệm không đúng cho rằng đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường cho sự phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập công hữu sở hữu toàn dân trong khi trình độ sản xuất và quản lý yếu kém dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc nảy sinh không lường trước được. Đất nước rơi vào tình trạng trị trệ không phát triển cán bộ tham ô, người công nhân với nông dân không hăng hái tham gia sản xuất, cuộc sống khó khăn, kinh tế giảm sút đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được sai lầm đó Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách mới, cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất, đưa ra phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có định hướng xã hội chủ nghĩa, dần dần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển kinh tế, giảm dần sự tụt hậu so với các nền kinh tế phát triển.
    Trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và muốn đạt được thành công thì nhất thiết phải có tiềm lực về kinh tế và con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra còn phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là nhân tố cơ bản nhất.
    Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao động lớn, cần cù, thông minh,sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ lao động của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp cùng với thời cơ lớn thì cũng có rất nhiều thách thức phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, vì dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Nhưng điều đó còn ở phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiên nay của nước ta.
    III. HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
    Thực tế từ trước đến nay đã chứng minh rằng công nghiệp hoá – hiện đại hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nhanh chóng đạt tới trình độ một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá toàn diện và sâu sắc. Đại hội đã biểu lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “xây dựng nước ra thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế phù hợp, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần phải được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thì lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến: một mặt con người phải quan hệ với tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này được biểu hiển ở lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập nhau biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành của toàn bộ lịch sử của nhân loại thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
    Mác đã đưa ra kết luận rằng xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của lịch sử phát triển đó là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định rằng tiến bộ xã hội là sự vận động theo đúng hướng tiến lên của các hình thái kinh tế xã hội khác mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển của sản xuất. Rằng sự vận động của các hình thái kinh tế – xã hội là do tác động của các quy luận khách quan. Mác và Angen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư tưởng. Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại. Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Đảng ta đã chỉ ra rằng công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghiệp với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiến lên của khoa học công nghệ mới. Mặt khác chúng ta chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời chúng luôn tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, đưa nước ta ngày một đi lên như Đảng và nhà nước ta mong muốn.
    Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có nhiều chỗ nói về mối quan hệ giữa
    lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chẳng hạn, ở mục Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh
    mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, tr. 187 có nói về cần đặc biệt chú trọng xử lý và giải

    quyết tốt các mối quan hệ lớn như giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
    từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở một chỗ khác có nói: để thực hiện tư tưởng
    chỉ đạo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, phải quán triệt quan điểm, mà quan
    điểm thứ tư là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày
    càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
    hội chủ nghĩa (tr.30-31). Ở tr.70 có đề cập đến một trong những đặc trưng của xã hội xã hội
    chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền kinh tế phát triển cần dựa trên lực
    lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Vậy phải chăng, những cách nói
    khác nhau này là thực sự khác nhau? Đối với lực lượng sản xuất thì hầu hết tất cả đều nói là
    cần phải phát triển lực lượng sản xuất, có chỗ cụ thể hơn như phát triển mạnh mẽ lực lượng
    sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao, có chỗ nói đến lực lượng sản xuất
    hiện đại. Thực ra lực lượng sản xuất hiện đại phải là lực lượng sản xuất với trình độ khoa học
    công nghệ ngày càng cao. Tất cả những cách nói đó không có gì mâu thuẫn, trái lại còn thống
    nhất, phù hợp với nhau. Còn đối với quan hệ sản xuất thì có chỗ nói xây dựng, hoàn thiện
    từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; có chỗ nói hoàn thiện quan hệ sản xuất trong
    nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có chỗ lại nói quan hệ sản xuất tiến bộ
    phù hợp. Ở đây cũng vậy, những cách nói khác nhau này hoàn toàn không mâu thuẫn với
    nhau mà thống nhất, phù hợp nhau; bởi lẽ, xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự trên đất nước ta
    vẫn chưa có, do đó quan hệ sản xuất nước ta hiện nay là quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
    trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang hướng tới quan hệ sản xuất xã hội chủ
    nghĩa, bởi vậy, chúng ta phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất này, và trong
    quá trình này, theo quy luật, chúng ta phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
    trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điểm cần lưu ý ở đây là tiến bộ nhưng phải phù
    hợp, nếu không sẽ dễ rơi vào chủ quan duy ý chí như trước kia: tiên tiến đi trước mở đường.
    Ngược lại, nếu không có từ ''tiến bộ'' thì chúng ta lại bỏ rơi tính năng động, tích cực, sáng tạo
    của con người; rơi vào trạng thái tự nhiên, từ đó tạo ra tính thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, thiếu
    tính sáng tạo. Vừa qua, trong lúc thảo luận, có người cho rằng ta bỏ cụm từ ''chế độ công hữu
    về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' như vậy là bỏ mất một trong những đặc trưng quan trọng nhất
    của chủ nghĩa xã hội? Thực ra không phải như vậy. Như chúng ta đã biết, chế độ công hữu,
    một trong những đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng chế độ
    công hữu chỉ là sự biểu hiện của quan hệ sở hữu, đến lượt mình quan hệ sở hữu lại chỉ là một
    yếu tố, mặc dù là yếu tố quan trọng nhất, của quan hệ sản xuất. Bởi vậy, nói như Đại hội XI là
    bao quát hơn, khái quát hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn.
    Vậy, phát triển lực lượng sản xuất là phát triển cái gì? Như chúng ta đã biết lực lượng sản
    xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bao gồm con người, tư liệu sản xuất;
    nó thể hiện năng lực của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên, là nội dung của
    phương thức sản xuất, cơ sở của lịch sử.
    Trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng con người không phải
    là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế, với tư cách là yếu tố quan trọng nhất
    trong lực lượng sản xuất nó cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, trong thời kỳ công trường thủ
    công, trong các khía cạnh của con người tham gia vào lực lượng sản xuất thì khía cạnh sức
    lực cơ bắp có vẻ nổi trội; trong thời kỳ cơ khí máy móc thì khía cạnh năng lực, kỹ năng, kinh
    nghiệm lao động lại nổi trội hơn; trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay (hàm lượng tri thức
    trong sản phẩm chiếm đến 70%) thì khía cạnh tri thức lại nổi trội. Như vậy, cái quan trọng có
    tính chất quyết định trong lực lượng sản xuất hiện nay không phải là sức lực cơ bắp, không
    phải là kỹ năng, kinh nghiệm sử dụng, vận hành máy móc, mà là tri thức, là đầu óc của con
    người. Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu lao động bao
    gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong lực lượng sản xuất, nếu con người là yếu
    tố quan trọng nhất thì công cụ lao động là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển của công cụ
    lao động thể hiện trình độ hay thước đo việc chinh phục giới tự nhiên của con người. Sự thay
    đổi một cách căn bản công cụ lao động theo nghĩa nào đó đã góp phần quyết định kéo theo sự
    thay đổi của các thời đại kinh tế. Theo nghĩa đó, C.Mác nói: ''Cái cối xay quay bằng tay đưa
    lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công
    nghiệp'' (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.187).
    Trong lịch sử, trình độ của công cụ lao động nhìn chung đã trải qua ba giai đoạn sau chủ yếu:
    thủ công, cơ khí, máy móc và tự động hóa. Cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay
    không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động hóa.
    Ngay đối tượng lao động hiện nay cũng khác trước rất xa. Nếu trong nền văn minh nông
    nghiệp, đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất; trong văn minh cơ khí, đối tượng lao động
    lại được mở rộng ra, ngoài ruộng đất đối tượng lao động chủ yếu của thời kỳ này là các
    nguyên vật liệu như than đá, chất đốt, dầu khí, các nguyên liệu hóa thạch, các hầm mỏ, . nói
    chung là các nguyên vật liệu cần cho các ngành công nghiệp như sắt, thép, sợi, dệt vải, ô tô,
    cơ khí chế tạo máy, ., thì đối tượng lao động trong thời đại ngày nay ngoài những đối tượng
    trên, chủ yếu lại là thông tin.
    Trong tư liệu sản xuất còn bao gồm cả phương tiện sản xuất như đường xá, cầu cống, xe cộ,
    bến cảng, kho chứa, .
    Hiện nay khoa học kỹ thuật cũng đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo nghĩa nó là
    nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; nó ngày càng được áp dụng rộng rãi
    trong sản xuất và trở thành một nhân tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất; nó thâm
    nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản
    xuất; nó làm cho quá trình sản xuất chính là quá trình ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ thuật;
    nó có ý nghĩa sống còn đối với nhiều quá trình sản xuất. Nếu con người là yếu tố quan trọng
    nhất xuyên suốt trong lịch sử của lực lượng sản xuất thì khoa học kỹ thuật, theo Đặng Tiểu
    Bình, hiện là lực lượng sản xuất số một, còn theo Giang Trạch Dân, là biểu hiện tập trung,
    tiêu chí chủ yếu của lực lượng sản xuất tiên tiến. Hiện nay, tri thức, thông tin cũng là của cải.
    Theo đà phát triển của sản xuất, khối lượng và chất lượng của cải xã hội sẽ được quyết định
    bởi ứng dụng khoa học vào sản xuất. Từ đó một số học thuyết của các nhà tư tưởng tư sản đã
    đi đến chỗ tuyệt đối hóa, thổi phồng, khuếch đại vai trò của khoa học kỹ thuật, chẳng hạn như
    học thuyết các nền văn minh, học thuyết xã hội hậu công nghiệp, xã hội thông tin, học thuyết
    kỹ trị, . nhằm mục đích thay thế học thuyết học thuyết hình thái kinh tế xã hội của C.Mác.

    Nhưng như chúng ta đã biết dù có trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học kỹ thuật
    cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định
    vẫn là con người, mặc dù khoa học kỹ thuật nâng cao địa vị, vị thế, vai trò, sức mạnh của con
    người. Những máy vi tính có thể tính nhanh và chính xác gấp triệu lần con người; những rô
    bốt người máy có thể làm được những việc mà con người không thể làm nổi. Nhưng những
    cái đó suy cho cùng đều do con người chế tạo ra, nếu thiếu con người, thì tự bản thân chúng
    cũng không thể phát huy tác dụng, cũng không thể làm gì được. Khoa học kỹ thuật muốn phát

    triển, tác động phải thông qua con người, chịu sự chi phối bởi con người.
    Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, “người ta không được tự do lựa chọn lực
    lượng sản xuất cho mình . vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản
    phẩm của một hoạt động đã qua . không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra . Mỗi
    thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những thế hệ trước xây dựng lên và được
    thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới, .'' (Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp
    28.1.1846).

    Lực lượng sản xuất trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nó không chỉ được xã hội
    hóa như trước kia, mà nó ngày càng được toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Toàn cầu hoá kinh tế
    trước hết là toàn cầu hoá lực lượng sản xuất, cái mà thời C.Mác gọi là quá trình tư bản hóa.
    Ông viết :''Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông
    trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào
    lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả
    những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường
    nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản,

    nếu không sẽ bị tiêu diệt'' (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
    1993, T.4, tr.598-562).
    Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học
    kỹ thuật, trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản
    lý, phân công, trình độ ứng đụng khoa học kỹ thuật).
    Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học kỹ
    thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển
    nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua công cuộc công nghiệp
    hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Đảng ta chủ trương phát triển
    mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao là hoàn toàn
    đúng đắn, là cái lõi quan trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện nay ở nước ta.
    Muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay, chúng ta không chỉ phát triển lực lượng sản
    xuất, phát triển sức sản xuất, mà phải còn xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất;
    tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
    lực lượng sản xuất đó. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà liên hệ mật thiết với nhau, thống
    nhất với nhau trong cái gọi là phương thức sản xuất.
    Quan hệ sản xuất, đó là quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất; nó là
    hình thức của lực lượng sản xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần. Theo
    các nhà kinh điển, xã hội là sản phẩm có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người.
    Quan hệ giữa người với người tạo nên cái gọi là quan hệ xã hội, trong đó quan hệ sản xuất là
    cơ sở, cơ bản, nền tảng, ban đầu và có ý nghĩa quyết định. Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất
    sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời nhau,
    trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở của sự tồn tại là phát triển xã hội. Như vậy,
    ''Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế,
    bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản
    xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”[SUP]1[/SUP].
    Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý
    quan hệ phân phối sản phẩm. Ba yếu tố đó liên quan khăng khít với nhau, thống nhất với nhau
    tạo nên một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất, nhưng trong đó
    yếu tố thứ nhất đóng vai trò quyết định, nó qui định hai yếu tố sau. Tính chất của quan hệ sản
    xuất trước hết được qui định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế
    độ sở hữu đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất, qui định vị trí của từng tập đoàn người,
    từng giai cấp trong hệ thống sản xuất. Quan hệ tổ chức quản lý qui định trực tiếp qui mô, tốc
    độ, hiệu quả, xu hướng của mỗi nền sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm có tác dụng như
    chất xúc tác, kích thích (kìm hãm), thúc đẩy (hạn chế) tốc độ, nhịp điệu của sản xuất.
    Vậy, thế nào là xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ? Trước
    hết, như chúng ta đã biết, thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội cũ đã qua, nhưng xã hội mới
    chưa đến, tức xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự vẫn chưa có, do đó, trong thời kỳ này Đảng ta
    chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị
    trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
    hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
    sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi
    các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng
    đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và
    bền vững nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực
    hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vậy, cơ sở lý luận của
    chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này là chỗ nào?

    Hiện nay, nhìn chung, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta là khá đa dạng, không đồng
    đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
    - Công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất đa dạng. Công cụ lao động thủ công chiếm
    phần lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn.
    Nhưng bên cạnh đó ta cũng đã có công cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự
    động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một cơ sở sản xuất,
    trong một nhà máy. Nếu như phương Tây nhìn một cách đại thể đi từ lao động thủ công lên
    máy móc cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay có tất cả. Điều này nói lên tính chất
    nhiều trình độ của công cụ lao động nước ta hiện nay.
    - Thích ứng với nhiều loại trình độ của công cụ lao động sản xuất như vậy, kinh nghiệm và kỹ
    năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau, có kinh nghiệm và kỹ
    năng của người lao động thủ công, giản đơn; có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động
    cơ khí, máy móc; có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động đối với những máy móc
    hiện đại, tự động hóa. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa
    học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất
    khác nhau.
    - Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung là thấp, chậm phát triển, nhưng cũng
    có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó, ta thấy trình độ khoa học kỹ thuật nước ta
    hiện nay cũng rất đa dạng.
    Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay khá đa dạng, không đồng đều, tức
    nhiều trình độ. Theo qui luật, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp
    với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đa dạng,
    không đồng đều nhiều trình độ như vậy; do đó, một lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất,
    hay trong quan hệ sản xuất cũng phải đa dạng. Đa dạng nghĩa là chúng ta phải xây dựng nền
    kinh tế nhiều thành phần. Cụ thể hiện nay chúng ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà
    nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
    ngoài. Điều này khiến chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí
    của thời kỳ 1975- 1986 với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể.
    Đa dạng ở chỗ chúng ta cần phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý,
    nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể),
    ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu là toàn dân, tập thể và tư nhân. Nếu như trước kia
    chúng ta phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều
    cách khác nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, sức lực, trí tuệ của từng
    người), theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn khác, thông qua hệ

    thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
    Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần phải tiến
    hành đồng bộ những công việc sau:
    1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường;
    2. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp;
    3. Phát triền đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
    4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền
    kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Qua đó ta thấy mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng
    bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ biện chứng, liên hệ mật thiết với
    nhau, không tách rời nhau; một mặt, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với
    trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao; nhưng mặt khác, chúng ta phải xây dựng, hoàn
    thiện quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ, tức là chúng ta phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị
    trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được trình bày một cách rõ ràng, khúc triết,
    chính xác trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI của Đảng./.













    C. KẾT LUẬN


    Có thể nói giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ không thể tách rời trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quan trọng quyết định, nó là nội dung còn quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức của phương thức sản xuất. Vì thế chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất những quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế không phải lúc nào cũng có được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Đặc biệt sản xuất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất. Nhưng nếu chúng ta sử dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã chọn.





    Mục lục

    Trang

    A – Phần mở đầu . 1

    B – phần nội dung 2 .

    Chương I - sự nhận thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . 2
    I. Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . 2
    1. Lực lượng sản xuất . 2
    2. Quan hệ sản xuất . 3
    1. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cộng sản 4
    II. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 5
    1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp . 5
    2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lợi lượng sản xuất 6
    Chương II- Sự vận dụng của đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước 8
    I. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở nước ta . 8
    II. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay 10
    III. Tính chất thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá 10
    C. Kết luận 13
    D. Danh mục tài liệu tham khảo . 14


















    D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


    1. Tài liệu Lênin toàn tập – Tập 38 NXB Maxcơva 1977
    2. Góp phần hướng dẫn học tập môn triết học Mác – Lênin. Tập 2 – NXB chính trị quốc gia năm 2003
    3. Giáo trình triết học Mác – Lênin – NXB chính trị quốc gia
    4. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
    5. Tạp chí phát triển kinh tế
    “Công nghiệp hoá nhìn từ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”. PTS- Lưu Hà Vi.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...