Tiểu Luận quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ng

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Mở đầu
    Phần nội dung
    Chương 1. Lý luận chung về quy luật giá trị
    1.1.Nội dung quy luật giá trị
    1.1.1.Các quan điểm về quy luật giá trị
    1.1.2Quan điểm của Mác về quy luật giá trị
    1.1.3.Yêu cầu của quy luật giá trị
    1.1.4.Tác động quy luật giá trị
    1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
    1.2.1. Kinh tế thị trường
    1.2.1.1. Khái niệm
    1.2.1.2. Cơ chế thị trường
    1.2.1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
    1.3. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
    1.3.1. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
    1.3.2.Biểu hiện hoạt động
    1.3.2.1. Biểu hiện trong lĩnh vực sản xuất
    1.3.2.2. Biểu hiện trong lĩnh vực trao đổi
    Chương 2. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền king tế thị trường và giải pháp nhắm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta thời gian tới.
    2.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
    2.1.1. Những biểu hiện và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
    2.1.1.1. Trong lĩnh vực sản xuất
    2.1.1.2. Trong lĩnh vực lưu thông
    2.2. Giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong nền kinh tế thị trường của nước ta
    2.2.1. Hoạch toán kinh tế
    2.2.2. Chính sách giá cả hợp lý
    2.2.3. Đổi mới công tác quản lý của nhà nước trong nền kinh tế ở nước ta
    2.2.4. Những hình thức can thiệp của nhà nước
    2.2.5. Khắc phục những tiêu cực trong nền kinh tế
    Kết luận

    Lời mở đầu
    Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luaatjkinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu,quy luật lưu thông tiền tệ; . Nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
    Chúng ta biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện cuẩ quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phân hóa giai cấp giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh không lành mạnh tiếp thu được tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế nên nhóm chúng tôi đã chọn đề tài : " Quy luật giá trị.những biểu hiện của quy luật này trong nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
    Đối tượng nghiên cứu:
    Quy luật giá trị
    Những biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
    Giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta hiện nay
    Phạm vi nghiên cứu:
    Thời gian: từ khi hình thành các quan điểm về quy luật giá trị đến nay.
    Không gian: trên phạm vi nền kinh tế cả nước
    Mục đích: hệ thống những vấn đề lý luận về quy luật giá trị vận dụng quy luật này vào nền kinh tế nước ta như thế nào trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị và giải pháp.
    Kết cấu đề tài:
    Chương 1. Lý luận chung về quy luật giá trị
    Chương 2. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền king tế thị trường và giải pháp nhắm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta thời gian tới.

    Phần nội dung
    Chương 1. Lý luận chung về quy luật giá trị và những đặc điểm, biểu hiện hoạt động của quy luật này trong nền kinh tế thị trường định hướng XXHCN ở Việt Nam.
    1.1. Nội dung về quy luật giá trị
    1.1.1. Các quan điểm về giá trị:
    Theo Adam Smith lý luận giá trị: Ông phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi cho hàng hóa là do hao phí lao động để sản xuất ra nó quyết định, xong ông lại không nhất quán. Có lúc lại đưa ra định nghĩa sai lầm về giá trị bỏ mất bộ phận tư bản bất biến (c) chỉ còn (v+m) nên bị bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
    Theo Thomas Robert Malthus: Ông đã sử dụng nghĩa thứ hai của Adam Smith về giá trị và bổ sung định nghĩa này. Điều đó làm cho quan điểm về giá trị của Thomas Robert Malthus xa rời quan điểm giá trị- lao động Thomas Robert Malthus ủng hộ định nghĩa cho rằng:
    “Giá trị hàng hóa do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa này quyết định”
    Ông bổ sung thêm:
    “Lao động mà bằng hàng hóa này có thể mua được bằng những chi phí để sản xuất. Các chi phí này bao gồm: Chi phí về lao động sống, lao động vật hóa cộng với lợi nhuận tư bản ứng trước”
    Như vậy nguồn gốc của giá trị theo Thomas Robert Malthus là các chi phí về lao động sống, lao động vật hóa và lợi nhuận tư bản ứng trước, ở đây ông coi lợi nhuận là khoản dôi ra từ lao động sống. Điều đó thể hiện ông xa rời lý thuyết giá trị lao động.
    Theo J.b.Say: Đặc điểm nổi bật trong lý thuyết giá trị là ông xa rời lý thuyết giá trị lao động, ủng hộ lý thuyết giá trị lợi ích hay giá trị lợi ích-chủ quan. Tư tưởng về lợi ích có từ lâu kể từ thời cổ đại. Tiếp tục tư tưởng này Say viết :
    “Sản xuất tạo ra giá trị lợi ích (tức giá trị sử dụng), còn lợi ích làm cho vật có giá trị”.
    Ông chỉ ra là:
    “Giá cả là thước đo của giá trị, còn giá trị là thước đo của lợi ích. Ích lợi của sản phẩm càng nhiều thì giá trị sản phẩm càng cao”.
    Theo trường phái thành viên: Lý thuyết giá trị của phái thành viên có nét khác biệt. Bằng cách kết hợp phạm trù kinh tế và phạm trù toán học họ đưa ra phạm trù “ích lợi giới hạn” và “giá trị ích lợi giới hạn”:
    Ích lợi giới hạn: Karl Menger chỉ ra rằng cùng với đà tăng lên của vật phẩm tăng lên, thỏa mãn nhu cầu về sau có lợi ích ít hơn vật trước. Với một lượng vật phẩm cuối cùng là “vật phẩm giới hạn” ích lợi của nó là ích lợi giới hạn. Nó quyết định ích lợi chung của tất cả các vật phẩm khác nhau. Như vậy ích lợi giới hạn là ích lợi cuối cùng đưa ra thỏa mãn nhu cầu. Ích lợi đó là nhỏ nhất, nó quyết định tất cả các vật phẩm khác.
    + Giá trị trao đổi: Nếu Adam Smith cho rằng giá trị trao đổi là khách quan thì M.Menger cho rằng giá trị trao đổi là chủ quan. Theo M.Menger, sở dĩ hai người trao đổi sản phẩm cho nhau chỉ vì cả hai tin rằng sản phẩm mà mình bỏ ra đối với mình ít hơn mà sản phẩm mình thu về. Như vậy khi trao các cá nhân tính toán căn cứ vào nhu cầu, tức là so sánh sản phẩm sẽ có sau khi trao đổi với nhu cầu của bản thân. Nếu có lợi anh ta mới trao đổi. Quan điểm giá trị của K.Menger được Bohm Bwerk tiếp tục phân tích, ông đã phân loại các hình thức giá trị thành giá trị khách quan và giá trị chủ quan. Từ đó Bohm Bwerk phân chia giá trị sử dụng và giá trị trao đổi thành bốn loại giá trị:
    + Giá trị sử dụng chủ quan
    + Giá trị trao đổi chủ quan
    + Giá trị sử dụng khách quan
    + Giá trị trao đổi khách quan
    Căn cứ sự phân chia này là nơi nhận sản phẩm của cải đó đến tay ai?
    Theo nhà kinh tế học Von Wieser (1851-1926) giữa giá trị và ích lợi có sự tách biệt. Khi số lượng sản phẩm càng tăng lên để thỏa mãn nhu cầu thì ích lợi giới hạn của nó càng giảm xuống. Do vậy giá trị của hàng hóa càng giảm đi. Từ đó ông đã đi đến kết luận:
    “ Muốn có nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm. Khi sản phẩm tăng lên mãi thì ích lợi giới hạn có thể tiến tới không. Ông nói rằng khi đó vật chỉ có ích lợi trìu tượng (tức là nói tới ích lợi chung) chứ không còn nói tới ích lợi cụ thể nữa (tức là lợi ích gắn với một số lượng nhất định). Khi vật có ích lợi trìu tượng thì ích lợi đó không tạo ra giá trị”
    Theo Leon Walras: Quan điểm giá trị của Leon Walras dựa trên lý thuyết giá trị của trường phái thành viên và lý thuyết khan hiếm của Auguste Walras ( cha của Leon Walras). Theo A.Walras khan hiếm là một quan niệm khách quan theo đó giá trị phát sinh từ tình trạng bất cân xứng giữa cung và cầu. Một vật có giá trị khi cung nhỏ hơn cầu. Nếu cung lớn hơn cầu thì vật đó trở nên dư thừa, mất giá trị. Kết hợp các quan điểm này Leon Walras cho rằng giá trị là tất cả những vật hữu hình hay vô hình đang ở trong tình trạng khan hiếm. Các vật đó có ích với ta và số lượng của vật có hạn”.
    1.1.2. Quan điểm của Mac về giá trị
    Lần đầu tiên giá trị được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của những người sản xuất hàng hóa còn hàng hóa là nhân tố tế bào của xã hội tư sản. Mác phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Chỉ rõ lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Mác định nghĩa lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, phê phán các quan điểm đi trước. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Trên cơ sở phát hiện này Mác đã thực hiện cuộc cách mạng trong khoa học, kinh tế, chính trị. Ông viết “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa và khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này”. Từ đó ông vạch ra trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể, bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v+m). Và toàn bộ giá trị hàng hóa bao gồm (c+v+m). Điều này D.Ricardo không vượt được. Trên cơ sở lý thuyết giá trị-lao động, Mác phải giải quyết hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế khác.
    1.1.3. Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị
    Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá. Nó quyết định các phương pháp và các nguyên tắc đo lường phân phối, kích thìch lao động xã hội trong các điều kiện của sản xuất hàng hoá. Ơû đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động.
    Theo quy luật giá trị việc sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, trao đổi phải dựa trên cơ sở ngang giá.
    Tác dụng của quy luật giá trị :
    Quy luật giá trị tồn tại và hoạt động ở các phương thức sản xuất có sản xuất hàng hoá và có những đặc điểm hoạt động riêng biệt tùy thuộc vào quan hệ sản xuất thống trị. Nhưng nhìn chung, quy luật giá trị đều có những tác dụng chủ yếu :
    Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá : Trên thực tế hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trong xã hội.
    Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động :Trong sản xuất hàng hoá để thu nhiều lợi nhuận , người sản xuất hàng hoá phải thường xuyên thay đổi, cải tiến chất lượng mẫu mã hàng hoá cho phù hợpnhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn.
    Phân hoá những người sản xuất hàng hoá : Sự tác động của quy luật giá trị bên cạnh mặt tích cực cùng dẫn đến sự phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo. Dưới tác động của quy luật giá trị và các quy luật khác tất yếu dẫn đến kết quả : những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ cao, sẽ phát tài làm giàu. Ngược lại, những người không có điều kiện trên hoặc gặp rủi ro tai nạn sẽ bị mất hết vốn, phá sản. Tác dụng này của quy luật giá trị một mặt đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển .
    1.1.4.Tác động của quy luật giá trị
    Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động sau:
    Thứ nhất, nó điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Khi một hàng hoá có giá cả cao hơn giá trị, bán có lãi, người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư tư liệu sản xuất và sức lao động, đồng thời những người sản xuất các hàng hoá khác có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này. Còn nếu mặt hàng đó có giá cả thấp hơn giá trị, bị lỗ vốn thì người sản xuất phải thu hẹp sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác. Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, nó còn thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
    Quy luật giá trị cũng kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm . Bởi vì trong sản xuất hàng hoá, để tồn tại và có lãi, mọi người sản xuất đều phải tìm làm cho mức hao phí lao động cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức lao động xã hội cần thiết. Cuộc canh tranh càng khiến cho những người sản xuất tích cực cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động . mạnh mẽ hơn. Mọi người sản xuất đều làm như vậy sẽ làm cho năng suất lao động của toàn xã hội tăng lên, sản xuất ngày càng phát triển.
    Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng tự phát phân hoá người sản xuất ra thành người giàu và người nghèo. Người sản xuất nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết sẽ thu được nhiều lãi và giàu lên, mở rộng sản xuất, thậm chí trở thành ông chủ thuê nhân công. Còn những người sản xuất có mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động XH cần thiết sẽ thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản và trở thành công nhân làm thuê.
    Vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Chúng ta cần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
    1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
    1.2.1. Kinh tế thị trường
    1.2.1.1. Khái niệm
    Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
    Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua - bán và hàng hoá.
    1.2.1.2. Cơ chế thị trường
    Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường cùng các mối quan hệ cơ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận.
    Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt động) kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Ngược lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.
    Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do không có tổn thất xã hội.
    Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, v.v . Nếu không, cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế. Khi đó có thất bại thị trường.
    Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung cầu.
    Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ chịu', chấp nhận cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải.
    Có 3 hình thức của cơ chế thị trường :

    Cơ chế chỉ huy tập trung
    Thực chất là cơ chế mệnh lệnh, là một xã hội Chính phủ đề ra mọi quyết định về sản xuất và tiêu dùng. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Sau đó các hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ sản xuất gia đình, các doanh nghiệp.
    Quá trình như vậy là một nhiệm vụ rất phức tạp và không tồn tại một nền kinh tế mệnh lệnh hoàn chỉnh, trong đó tất cả các quyết định về phân bổ nguồn lực được tiến hành theo phương pháp này. Tất nhiên việc xây dựng một kế hoạch như vậy, trong đó không chỉ xác định chính xác số lượng từng loại sản phẩm phải sản xuất mà còn ấn định cả giá cả, theo đó các sản phẩm này được bán cho người tiêu dùng là một công việc khổng lồ. Chỉ cần nhà quản lý phạm sai lầm là có thể dẫn đến tình trạng dư thừa hay thiếu hụt to lớn một loại sản phẩm nào đó.
    Cơ chế thị trường tự do
    Cơ chế thị trường tự do, các đơn vị cá biệt được tự do tác động lẫn nhau trên thị trường. Nó có thể mua sản phẩm từ các đơn vị kinh tế này hoặc bán sản phẩm cho các đơn vị kinh tế khác. Trong một thị trường, các giao dịch có thể thông qua trao đổi bằng tiền hay trao đổi bằng hiện vật (hàng đổi hàng). Việc hàng đổi hàng gặp không ít phức tạp, đôi khi không có hàng cần để trao đổi lẫn cho nhau; ví dụ, có khi khó tìm ra người đổi xe máy lấy một cây đàn. Do đó việc đưa tiền tệ vào làm vật trung gian cho sự trao đổi đã làm thuận lợi rất nhiều cho những cuộc giao dịch. Trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta mua hoặc bán các sản phẩm và dịch vụ thông qua tiền tệ.
    Trong cơ chế thị trường, vấn đề giá cả đã quyết định việc mua cái và bán cái gì. Việc phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Quá trình điều chỉnh giá cả sẽ khuyến khích xã hội phân bố lại các nguồn lực để phản ánh được sự khan hiếm đã tăng lên của một loại hàng hóa nào đó.
    Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do. Các cá nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của riêng mình bằng cách cố gắng làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình, không có ai trợ giúp hoặc can thiệp của Chính phủ. Với những động cơ cá nhân như vậy, nhưng chính điều đó đã làm cho xã hội khá giả lên bằng cách tạo ra những việc làm và những cơ hội mới. Chính vì vậy, mà đường giới hạn khả năng sản xuất dịch ra xa hơn.
    Cơ chế hỗn hợp
    Thị trường tự do cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình mà không có sự can thiệp khống chế nào của Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh để cho tự do cá nhân về kinh tế một phạm vi rất hẹp, vì hầu hết các quyết định đều do Chính phủ đưa ra. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế hỗn hợp.
    Trong một nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tương tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Chính phủ kiểm soát một phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh thuế, thanh toán chuyển giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng vũ trang, cảnh sát. Chính phủ cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân.
    Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trò là nhà sản xuất các hàng hóa tư nhân thông qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước.
    1.2.1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường.
    Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
    Thực chất điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các yếu tố sản xuất như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ nơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến động giá cả thị trường. Từ đó tạo ra những tỷ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng háo nhất định.
    Quy luật cạnh tranh thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn ăn khớp với nhau, nhưng từ trước đến nay nó chưa hề ăn khớp mà thường tách nhau ra đối lập với nhau. Cung luôn bám sát cầu, nhưng từ trước đến nay không lúc nào thỏa mãn được một cách chính xác.
    Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp sau đây:
    Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
    Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao. Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và sản xuất hết tốc lực; những người đang sản xuất hàng hóa khác, thu hẹp quy mô sản xuất của mình để chuyển sang sản loại hàng hóa này. Như vậy tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng lên cung về loại hàng háo này trên thị trường tăng lên.
    Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, bán không chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt những kẻ đang sản xuất loại hàng hóa này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất loại hàng hóa có giá cả thị trường cao hơn; làm cho tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn ở ngành này giảm đi.
    Thực ra điều tiết lưu thông của quy luật giá trị là điểu chỉnh một cách tự phát khối lượng hàng hóa từ hơn giá thấp đến nơi giá cao, tạo ra mặt bằng giá cả xã hội. Giá trị hàng hóa mà thay đổi thì những điều kiện làm tổng khối lượng hàng hóa có thể tiêu thụ cũng thay đổi. Nếu giá trị thị trường hạ thấp thì nhu cầu xã hội sẽ mở rộng thêm và trong những giới hạn nhất định, có thể thu hút những khối lượng hàng hóa lớn hơn. Nếu giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu xã hội về hàng hóa sẽ thu hẹp và khối lượng hàng hóa tiêu thụ cũng sẽ giảm. Vì vậy nếu cung cầu điều tiết giá cả thị trường hay đúng hơn là điều tiết sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường thì trái lại chính giá trị thị trường điều tiết quan hệ cung cầu, hay cấu thành trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung cầu làm cho những giá cả thị trường dao động.
    Trong xã hội tư bản đương thời mỗi nhà tư bản công nghiệp tự ý sản xuất ra cái mà mình muốn theo cách mình muốn, và với số lượng theo ý mình. Đối với họ số lượng mà xã hội cần là 1 lượng chưa biết, cái mà ngày hôm nay cung cấp không kịp thì ngày mai lại có thể cung cấp nhiều quá số yêu cầu. Tuy vậy người ta cung thỏa mãn được như cầu 1 cách miễn cưỡng, sản xuất chung quy là căn cứ theo những vật phẩm người ta yêu cầu.
    “ Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh trinh lập ra bằng cách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự thay đổi giá hàng mà người sản xuất hàng hóa riêng lẻ biết được chính xác xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao nhiêu.”( C. Mác: Sự khốn cùng của triết học, Nhà xuất bản Sự thật).
    b) Kích thích lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động xã hội
    Để tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh và thu hút được nhiều lãi, từng người sản xuất hàng hóa đều tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình, giảm giá trị cá biệt của hàng hóa do mình sản xuất ra. Từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất càng tăng cao hơn.
    Như thế là chúng ta thấy phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn thay đổi, dẫn đến sự phân công kỹ càng hơn, dùng máy móc nhiều hơn, lao động trên quy mô lớn đưa đến lao động trên một quy mô lớn hơn như thế nào.
    Đó là quy luật luôn đẩy sản xuất ra khỏi con đường cũ và luôn buộc sản xuất phải làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương hơn. Quy luật đó không gì khác mà là quy luật nhất định giữ cho giá cả hàng hóa ngang bằng với chi phí sản xuất của chính hàng hóa đó, trong giới hạn của những biến động chu kì của thương mại. Nếu một người nào có chi phí sản xuất được rẻ hơn, có thể bán được nhiều hàng hóa hơn và do đó chiếm lĩnh được ở trên thị trường một địa bàn rộng hơn bằng cách bán ra hạ giá hơn giá thị trường hiện hành hay hạ hơn giá trị thị trường thi anh ta sẽ làm ngay như thế đo đó sẽ mở đầu một hành động dần đần khiến người khác cũng phải học theo nghiên cứu các phương pháp ít tốn kém hơn và làm cho thời gian lao động xã hội cần thiết giảm xuống thấp hơn.
    Theo Mác thì trong sự vận động bên ngoài những tư bản, những quy luật bên trong củ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thành những quy luật bắt buộc của sự cạnh tranh, rằng dưới hình thức đó đối với những nhà tư bản những quy luật biểu hiện thành động cơ của những hoạt động của họ, rằng như vậy là muốn phân tích một cách khoa học sự cạnh tranh thì trước đó cần phân tích tính chất bên trong của tư bản, cũng như chỉ người nào hiểu biết sự vận dộng thực sự của các thiên thể - tuy là các giác quan không thể thấy được – thì mới có thể hiểu được sự vận động bề ngoài của những thiên thể ấy.
    VD: Viettel - Mobi – Vina cạnh tranh nhau. Viettel có mức chi phí khá thấp nên sản phẩm mua họ rẻ, khiến nhiều người dùng hơn. Vina cũng cải tiến lên công nghệ 3G để thu hút những khách hàng có nhu cầu nhằm cạnh tranh chiếm lại thị trường. Đó mới chỉ là một phần rất nhỏ của một ngành kinh doanh trong vô số ngành kinh doanh. Rõ ràng 2 điều trên sẽ thúc đẩy Mobi học tập theo và nghiên thêm một kĩ thuật mới hơn hòng vượt qua 2 đối thủ. Tuần hoàn như vậy mỗi khi có 1 đối thủ vươn lên các đối thủ còn lại sẽ tìm cách đoạt lại vị trí của mình, sự cạnh tranh đó vô tình khiến nền kinh tế phát triển hơn.
    c) Phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo
    Trong xã hội những người sản xuất cá thế, đã có mầm mống của 1 phương thức sản xuất mới. Trong sự phân công tự phát, không có kế hoạch nào thống trị xã hội, phương thức sản xuất ấy đã xác lập sự phân công tổ chức theo kế hoạch, trong những công xưởng riêng lẻ; bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể nhỏ đã làm xuất hiện sản xuất xã hội . Sản phẩm của 2 loại sản xuất đó cùng bán trên một thị trường , do đó giá cả ít ra cũng sấp xỉ nhau. Nhưng so với sự phân công lao động tự phát thì tổ chức có kế hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều; sản phâm của công xưởng dùng lao động xã hội là rẻ hơn so với sản phẩm của những người sản xuất nhỏ, tản mạn. Sản xuất của những người sản xuất cá thể gặp thất bại từ ngành này sang ngành khác. Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, nhiều vốn, có kiến thức và trình độ kinh doanh cao, trang bị kĩ thuật tốt sẽ phát tài, làm giàu. Ngược lại, không có các điều kiện trên, hoặc gặp rủi ro mất vốn phá sản. Quy luật giá trị đã bình tuyển, đã giá những người sản xuất kinh doanh
    Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hóa những người sản xuất kinh doanh thành người giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa đã chỉ ra là quá trình phân hóa này dần nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
    “ . Mỗi người đều sản xuất riêng biệt, có lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào nhà sản xuất nào khác. Họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một người nào trong số họ biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho một thị trường chung thì gọi là cạnh tranh. Dĩ nhiên trong những điều kiện ấy, sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động. Những người khéo léo hơn, tháo vát hơn và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sự biến động ấy, còn những người yếu ớt vụng về thì sẽ bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng trở nên nghèo đói, đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ” (V.Lênin : Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường)
    Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cùng sự bần cùng hóa của nhân dân là hiện tượng ngẫu nhiên. Hai điều đó tất nhiên đi kèm với sự phát triển của nên kinh tế hàng hóa dựa trên sự phân công lao động của xã hội. Vấn đề thị trường hoàn toàn bị gạt đi , vì thị trường chẳng qua chỉ là sự biển diễn của sự phân công đó và của sản xuất hàng hóa. Người ta sẽ thấy sự phát triển của chủ nghĩa cơ bản không những là có thể có mà còn là sự tất nhiên nữa, vì một khi kinh tế xã hội đã xây dựng trên dự phân công và trên hình thức hàng hóa của sản phẩn, thì sự tiến bộ về kỹ thuật không thể không dẫn tới chỗ làm cho chủ nghĩa tự bản tăng cường và mở rộng thêm.
    Ta có thể hiểu điều này như một sự chi phối lựa chọn tự nhiên. Ai mạnh mẽ sẽ tồn tại còn ai yếu kém sẽ bị bài trừ, và sự chi phối này càng kích thích những người mạnh mở rộng kinh doanh. VD: FPT từ một lĩnh vực ban đầu thiên về tin học phát triển công nghệ thông tin, phần cứng, phần mạng đang ngày càng mở rộng lấn sang những ngành kinh doanh dịch vụ khác: đầu tư, chứng khoán,
    1.3. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
    1.3.1. Vai trò cuẩ quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
    Nhận thức và vận dụng quy luạt giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy gái trị làm cơ sở thì mới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, hạ tầng thành sản phẩm. Nhà nước phải chủ động lợi dụng cơ chế hoạt hoạt động của quy luật giá trị nghĩa là khả năng giá cả tách rời giá trị, và xu hướng đưa giá cả trở về giá trị. Thông qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị nhằm:
    Thứ nhất là kích thích sản xuất phát triển. Đối với xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là xây dựng một hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hạch toán kinh tế đi vào nền nếp và có căn cứ vững chắc.
    Thứ hai là điều hoà lưu thông hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường, tổng khối lượng va cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoạch lưu chuyển hàng hoá quyết định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc dân, và thu nhập bằng tiền của nhân dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng trong điều kiện sức mua khong đổi, nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì lượng hàng tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp để ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhằm làm cho nhu cầu và mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của Nhà nước.
    Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua chính sách giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu năng cao đồi sống của nhân dân lao động.
    Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng các đòn bẩy của kinh tế hàng hoá như tiền lương, giá cả, lợi nhuận dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết để tổ chức và thực hiện chế đọ hạch toán kinh tế.
    Tóm lại, những điều trình bày trên đây nói lên trong kinh tế thị trường có sự cần thiết khách quan phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ xung cho cái trước. Quá trình kết hợp đó cũng là một quá trình phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị, là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường như là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho giá trị hàng hoá ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn cho nhu cầu đời sống, đồng thời tăng thêm khối lượng tích luỹ.
    Đi đôi với việc phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị phải đồng thời ngăn chặn những ảnh hưởng những tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế. Quy luật giá trị tồn tại một cáhc khách quan trong nền kinh tế. Nhờ nắm vững tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế, tự giác sử dụng tác dụng tích cực và hạn chế các tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị. Nhà nước đã năng cao dần trình độ công tác, kế hoạch hoá kinh tế. Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: Về cơ bản chúng ta đã nắm được nội dung, tích chất và tác dụng của quy luật giá trị đối với các thành phần kinh tế khác nhau trong hai lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau về tự liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ; Công tác kế hoạch hoá giá cả cũng đã có tiến bộ, phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được nâng lên một bước.
    1.3.2. Biểu hiện hoạt động
    1.3.2.1 Biểu hiện trong lĩnh vực sản xuất
    Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội.
    1.3.2.2. Biểu hiện trong lĩnh vực trao đổi
    Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị.

    Chương 2. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền king tế thị trường và giải pháp nhắm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta thời gian tới.
    2.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

    Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt đối cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giơí đi nữa. Lúc nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế cần được tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lý nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế. Đó vẫn là một trong những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước Việt Nam của chúng ta. Vậy hiện nay, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để phát triển nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đi lên một nền kinh tế mới phát triển hơn, hoàn chỉnh hơn. Trước khi xét điều đó ta sẽ đi phân tích nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây để thấy được thực trạng nền kinh tế của đất nước.
    Nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn biến động cùng với nền kinh tế thế giới. Để phát triển nền kinh tế thì vấn đề trước hết là ta phải biết bắt đầu từ đâu, đã có những cái gì và chưa có được những gì, cái gì phải làm trước, cái gì nên làm sau mới thực hiện. ở phần này chúng ta sẽ được rà soát một lượt những vấn đề tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam để có thể lưu tâm vạch ra kế hoạch cho sự khắc phục và phát triển những yếu tố đó.
    2.1.1. Những biểu hiện hoạt động và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
    2.1.1.1 Trong lĩnh vực sản xuất.
    Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức lao động hao phí trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau. Nhà nước ta đã chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị.
    Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
    Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
    Xét ở tầm vĩ mô: Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do vậy Nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vận dụng đúng đắn của Nhà nước ta.
    Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất, giá trị cá biệt của từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hội, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở khi đặt kế hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu để định khối lượng kết cấu hàng hóa
    Tác động của quy luật giá trị trong lĩnh vực sản xuất thể hiện qua các khía cạnh sau:
    Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.


    Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chi tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra mà phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
    Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy tiến trình ra nhập AFTA, WTO, mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với nhau và với các cá nhân nước ngoài. Cũng có thể coi đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất.


    Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam.


    Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con đường đi mới trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh sao cho tạo nên sự hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, các con đường đó sẽ luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều về số lượng, cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.
    Sự năng động còn thể hiện ở sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì sự phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nhiều nguồn nhân lực vào các thành phân kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa thu lợi nhuận (lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao trình độ sản xuất trong một ngành, một lĩnh vực nhất định.
    Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.


    Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận thì sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
    Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu. Do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiên sản xuất cái này thì nước kia có điều kiện sản xuất cái khác và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường.
    Ngoài ra khi quy luật giá trị tác động như vậy sẽ có tác dụng giáo dục những cán bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất một cách hợp lí và khiến họ tôn trọng kỉ luật. Nhờ đó mà học hỏi tính toán tiềm lực của sản xuất, tính toán một cách chính xác, tính đến tình hình thực hiện của sản xuất, biết tìm ra những lực lượng dự trữ tiềm năng giấu kín trong sản xuất.

    2.1.1.2. Trong lĩnh vực lưu thông.


    Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật trong lưu thông, phân phối được thể hiện ở những mặt sau:
    Hình thành giá cả


    Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị cho nên khi xác định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời phải bảo đảm một mức lãi thỏa đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau cũng như giữa nhà nước với nông dân. Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
    Nguồn hàng lưu thông.
    Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường được thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cấp theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ thông giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng cường quản lí. Không những thế nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng loại hàng hóa trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.
    Tuy nhiên sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho giá cả nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lí hơn.
    Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo đuổi hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu quả kinh tế hình thành trong điều kiện kinh tế thị trường; một khi được mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã hội và con người, không tránh khỏi sản sinh những quan niệm khác nhau gắn bó với đạo đức con người, đó là chuẩn mực giá trị “coi trọng tình nghĩa, xem thường lợi ích” hay “coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa”. Do vậy ở nước ta phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải chú ý sự chuyển đổi quan niệm giá trị xã hội sao cho phù hợp với đạo đức quan hệ truyền thống và hiện đại. Thể hiện rõ nhất ở nước ta hiện nay là nạn hàng giả, trốn thuế, buôn lậu
    2.2. Giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong nền kinh tế thị trường của nước ta
    2.2.1. Hạch toán kinh tế là một giải pháp nhằm thực hiện tốt việc vận dụng quy luật giá trị.
    Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các
    doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hoá, đồng thời hạch toán
    kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vi mô. Trên ý nghĩa đó cần phải làm sáng tỏ
    bản chất của quan hệ này cùng với những điều kiện và nguyên tắc của nó, đặc
    biệt trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
    thị trường.
    Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta
    đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán kinh tế thực sự chõng nào cơ chế tập
    trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chứng nào chưa thừa nhận trên thực tế
    sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị và các phạm trù của nã. Ở nước ta hiện nay
    sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn
    liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh
    tế. Hay nói cách khác là chuyển từ quan hệ theo chiều dọc từ trên xuống sang
    quan hệ theo chiều ngang mà trong đó mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán
    kinh tế độc lập. Điều kiện tiền đề để thực hiện quá trình chuyển đổi này là
    phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản và thực hiện quyền
    này về mặt kinh tế tức là các doanh nghiệp Nhà nước vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế thông qua công cụ tài chính dưới hình thức: thuế, nép lợi nhuận. Còn quyền sử dụngNhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo tồn duy trì vốn. Thực hiện quyền này doanh nghiệp tự mình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tự nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lùa chọn công nghệ đến tiêu thụ sản phẩm. Dùa trên cơ sở tự chủ hoàn toàn mà nâng cao trách nhiệm vật chất của cả tập thể và cá nhân người lao động, thực hiện nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt bằng vật chất, khuyến khích người lao động bằng lợi ích vật chất.
    Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng
    hoá, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản
    xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí
    thường xuyên so đối chiếu đầu vào và đầu ra. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó không có cách nào khác là phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động.
    Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế được xem xét dưới góc độ những
    quan hệ kinh tế, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ kinh tế vi mô thì nó được xem xét từng khía cạnh là phương pháp quản lý của các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc trưng của phương pháp này là:
    Doanh nghiệp tự chủ tronghd kinh doanh là bù đắp chi phí và có lãi.
    Chịu trách nhiệm vật chất và khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
    Sử dụng các phạm trù giá trị để nâng cao hiệu quả. Vậy hạch toán kinh
    tế là phương pháp quản lý kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước dùa trên cơ sở sử dụng các phạm trù giá trị và quy luật giá trị, đề cao trách nhiệm vật chất và quan tâm đến lợi Ých vật chất của người lao động nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
    Tác dụng của hạch toán kinh tế
    Một là, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của tập thể còng nh- của từng
    người lao động, do đó khai thác đầy đủ các tiềm năng của doanh nghiệp.
    Hai là, kết hợp với lợi Ých cá nhân, tập thể tạo ra động lực thúc đẩy sản
    xuất. Do đề cao trách nhiệm vật chất và khuyến khích vật chất, người lao động sẽ quan tâm đến kết quả lao động.
    Ba là, hạch toán kinh tế dùa trên cơ sở ứng dụng các phạm trù giá trị để
    tính toán, lùa chọn phương án tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
    Bốn là, hoạt động của các đơn vị hạch toán kinh tế làm tăng thêm dung
    lượng thị trường. Đối với từng doanh nghiệp để đứng vững trong cạnh tranh phải không ngừng hạ thấp giá trị cá biệt bằng cách tăng năng suất lao động đồng thời giảm giá trị thị trường (giá trị xã hội) và do đó phải hạ thấp giá cả hàng hoá.
    2.2.2. Chính sách giá cả hợp lý trong nền kinh tế thị trường.
    Việc chuyển từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế là sự đổi mới có tính cách mạng trong lĩnh vực quản lý kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nước do chính sự tồn tại của chúng đòi hỏi. Sau để duy trì quan hệ này cần có những điều kiện bảo đảm, trong đó nổi bật nhất là phải có hệ thống giá cả và tiền tệ ổn định, giá cả có mặt bằng xã hội thống nhất bởi không thể so sánh đối chiếu, không thể xác định được hiệu quả nếu không có thước đo giá trị chính xác. Mặt khác, điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung, điều tiết giá cả của Nhà nước theo cơ chế thị trường trong thời đại ngày nay là một tất yếu khách quan.
    Tại sao Nhà nước theo cơ chế thị trường lại phải điều tiết giá cả và sự
    điều tiết đó có vai trò gì đối với Nhà nước, đối với xã hội Sau đây là những lý do chính:
    Điều tiết giá cả của Nhà nước là bộ phận cấu thành của các hoạt động
    điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung của Nhà nước theo chế cơ chế thị trường.
    Điều tiết giá cả của Nhà nước là hoạt động không thể thiếu được nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường trong lĩnh vực giá cả và góp phần khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng công cụ giá cả.
    Lực lượng sản xuất đạt trình độ quốc tế hoá, quan hệ kinh tế thế giới
    phát triển mạnh mẽ là một trong những đòi hỏi quan trọng sự điều tiết giá cả của Nhà nước.
    Sức ép đấu tranh của các tầng líp xã hội khác nhau cũng là nhân tố
    quan trọng đòi hỏi sự điều tiết giá cả của Nhà nước.
    Sự điều tiết giá cả của Nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất
    nhiều tác dụng vai trò khác nhau. Đáng lưu ý nhất là vai trò trong việc thựchiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng và trong việc thực hiện công bằng xã hội.
    2.2.3 . Đổi mới công tác quản lý giá của Nhà nước trong nền kinh tế
    thị trường ở nước ta.
    Việc hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước về giá phải đặt trong sự
    đổi mới tổng thể các công cụ quản lý nền kinh tế quốc dân. Sự tác động đồng bộ của các hệ thống công cụ này sẽ tạo nên sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trên phạm vi toàn xã hội, và do đó sẽ tác động đến sự hình thành và vận động của giá cả thị trường trên giác độ nền kinh tế quốc dân, giá cả chịu sự tác động qua lại của các nhân tố như tốc độ tăng trởng của nền kinh tế, biến động của khối lượng tiền trong lưu thông, tính cân đối của ngân sách, việc đầu tư xây dựng cơ bản tiền lương và thu nhập của người lao động, cán cân thanh toán đầu tưnước ngoài, tỷ lệ hối đoái Do đó, để bình ổn giá cả thị
    trường xã hội, chính phủ phải sử dụng nhiều chính sách, biện pháp điều tiết vĩ mô, tác động và các nhân tố nêu trên, bảo đảm cân đối tổng cung và tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ đó tác động giá cả thị trường xã hội. Một nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến giá cả thị trường ở nước ta trong thời gian tới là việc vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đòi hỏi trong nước phải có một lượng tiền và hàng để thực hiện tốt vốn đầu tư đó. Như vậy xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân để bảo đảm cho giá cả thị trường ổn định, Nhà nước cần phải thường xuyên duy trì tổng thể các giải pháp sau.
    Đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa chính sách thuế và chính sách
    giá.
    Chính sách thuế là công cụ hết sức quan trọng để hướng dẫn và điều
    tiết cơ cấu sản xuất, phân phối thu nhập quốc dân, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp.
    Chính sách thuế đặc biệt là thuế hàng hoá xuất nhập khẩu, thuế doanh
    thu, thuế tiêu thụ đặc biệt có liên quan đến sự hình thành và vận động của giá cả thị trường. Tuy nhiên, chính sách thuế (thuế suất và căn cứ tính thuế) là một phần thu bắt buộc, thường được quy định ổn định trong một thời gian; trong khi đó giá cả hàng hoá, dịch vụ lưu thông trên thị trường thì thường xuyên biến động phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. Do đó, cần điều tiết phần lợi nhuận siêu ngạch tạo ra trong các trường hợp giá cả tách rời xa giá trị hàng hoá.
    b. Xây dựng và thực hiện một chính sách tiền tệ đúng đắn.
    Chính sách tiền tệ tác động đến giá cả thị trường chủ yếu là thông qua
    việc điều hoà cung ứng tiền và chính sách lãi suất. Từ năm 1990 trở về trước ngân hàng thường xuyên phải phát hành bù đắp bội chi ngân sách. Tỷ lệ phát hành cho tín dụng cũng lớn, đặc biệt là tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản nên đã gây sức ép lớn làm tăng giá trị thị trường và lạm phát cao. Từ năm 1991, lượng tiền phát hành do bội chi ngân sách và do tín dụng đầu tư đã giảm dần. Đến năm 1992, việc phát hành bù đắp bội chi ngân sách đã chấm dứt, việc phát hành cho tín dụng cũng được kiểm soát chặt chẽ. Điều đó tác động chặt chẽ đến bình ổn giá thị trường.
    Để khắc phục tình trạng này, chính phủ cần có sự thay đổi hình thức
    kiểm soát việc phát hành tiền của ngân hàng: thay việc duyệt mức phát hành tiền bằng quy định cho Thống đốc ngân hàng chịu trách nhiệm về kiểm soát lạm phát theo chỉ tiêu Quốc hội phê duyệt. Như vậy, quyền hạn của Thống đốc được bảo đảm về thực chất và gắn chặt chẽ với nhiệm vụ cụ thể. Tất nhiên, việc giao quyền cho Thống đốc như vậy không làm giảm nhẹ vai trò điều hành của Chính phủ trong việc phối hợp hành động của các ngành các cấp để thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá cả thị trường.
    c. Hoàn thiện chính sách đối ngoại.
    Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, khi ngoại thương ngày càng chiếm
    tỷ trọng lớn hơn trong lưu thông hàng hoá thì các chính sách trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, cụ thể là chính sách xuất nhập khẩu và chiến lược thu hút vốn đầu tư thị trường có ảnh hưởng quan trọng đến hệ thông giá nội địa. Nhiệm vụ của Nhà nước là bằng nhiều biện pháp tác động vào thị trường để có một tỷ giá hợp lý cho từng giai đoạn và giữ ổn định tương đối tỷ giá này. tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thực hiện các hợp đồng (khế ước) kinh doanh và tính toán hiệu quả của mình bảo đảm lợi ích chính đáng cuả doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu.
    2.2.4. Những hình thức can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với giá
    cả thị trường.
    Thẩm định chi phí và quy định chế độ giá.
    Việc chuyển từ định giá trực tiếp sang quản lý giá gián tiếp, một mặt làm
    giảm vai trò của Nhà nước trong quy định mức giá cụ thể của hàng hoá, mặt khác lại dề cao vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát giá cả một cách gián tiếp thông qua việc thẩm định chi phí do các doanh nghiệp kê khai, trong việc quy định chế độ tính toán chi phí và quy định giá. Ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển (như các nước Phương Tây, một số nước Đông Nam Á), chính phủ lập ra cơ quan thẩm kế, Nhà nước tính toán các mức thu thuế (hoặc bù giá, trợ cấp ) kinh nghiệm này cần sớm áp dụng ở nước ta.
    b. Định giá chuẩn và giá giới hạn.
    Xuất phát từ luận điểm về sự hình thành, vận động của giá cả trong cơ
    chế thị trường phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. Nhà nước thực hiện quản lý chủ yếu bằng các biện pháp quản lý gián tiếp tác động vào quan hệ cung cầu để giá cả vận động theo định hướng mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước còn định giá một số ít vật tư, hàng hoá quan trọng và giá tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Bởi vì:
    Một là nước ta mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, cơ cấu tổ chức sản xuất lưu thông còn mang nặng tính độc quyền, chưa có đủ điều kiện để phát huy tính cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
    Hai là, một bộ phận rất lới tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân dưới nhiều hình thức cho đến nay chưa xác định được "ông chủ thực sự" thay cho chế độ làm chủ tập thể của người lao động.
    Ba là, nền kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, giá cả thị trường còn nhiều
    biến động, nhiều vấn đề thuộc chính sách xã hội, miền núi dân téc cần được giải quyết.
    c. Đăng ký giá.
    Nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải đăng kí giá để đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế. Chỉ khi nào nắm được sự vận động của các yếu tố chi phí trong sự hình thành giá cả và các nhân tố chi phối giá cả thị trường, thị
    Nhà nước mới có thể chủ động đề ra các giải pháp bình ổn giá cả. Thông qua việc đăng ký giá, Nhà nước còn thực hiện chức năng kiểm soát chi phí, giám sát thực hiện các luật thuế, luật bảo vệ người tiêu dùng (ở nước ta đang xây dựng pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng). Phương hướng cơ bản là chuyển từng bước danh mục hàng hoá do Nhà nước quy định giá sang chức năng
    đăng ký giá
    d. Niêm yết giá.
    Đây là hình thức rất phổ biến ở các nước, cả các nước theo cơ chế thị
    trường lẫn các nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Niêm yết giá là thực hiện văn minh thương nghiệp. Trong chừng mực nhất định, niêm yết giá còn là một trong những biện pháp khuyến khích cạnh tranh làm lợi cho người mua và người bán. Điều rất quan trọng trong việc thực hiện niêm yết giá cả phải tương xứng với chất lượng và trọng lượng.
    2.2.5. Khắc phục những tiêu cực trong nền kinh tế.
    Độc quyền.
    Cung có thể mâu thuẫn với cầu bởi những lý do rất tự nhiên của hoạt
    động kinh tế. Nhưng chúng cũng có thể mâu thuẫn do người sản xuất sử dụng khả năng đặc biệt của mình. Đó là trường hợp độc quyền. Độc quyền có thể tồn tại dưới hai dạng là độc quyền mua và độc quyền bán. Cả hai đều có khả năng giữ giá ở mức cố định có lợi cho mình. Điều này tạo khả năng giá cả sai lệch so với giá trị kinh tế.
    b. Thủ đoạn kinh doanh.
    Cũng giống như trường hợp độc quyền, mâu thuẫn giữa cung và cầu có
    thể do hoạt động cố định gây ra của người kinh doanh nhằm thu lợi riêng, chẳng hạn như đầu cơ tích trữ Điều này tất nhiên có thể tạo khả năng là giá cả sai giá trị kinh tế.
    c. "Sức ỳ" của thể chế kinh tế.
    Nếu theo các nhà kinh tế học cổ điển thì giá cả và tiền lương rất linh hoạt, do đó giá cả và tiền lương sẽ điều chỉnh rất mạnh để xoá bỏ trạng thái chênh lệch của giá cả so với giá trị kinh tế. Sự xoá bỏ với tốc độ nhanh như vậy coi như không có sự chênh lệch giữa giá trị kinh tế và giá cả. Keynes đã thực hiện một cuộc cách mạng trong quan niệm về giá cả. Ông phản đối tính linh hoạt của tiền lương và giá cả và khẳng định trong những khoảng thời gian không ngắn; không thể coi "không tồn tại". Đây chính là nguyên nhân trực tiếp làm giá trị kinh tế chênh lệch với giá cả. Nó xuất phát từ "sức ỳ" từ quán tính của thể chế kinh tế. Ngoài ra, "sức ỳ" còn thể hiện qua tâm lý, qua tập quán trao đổi theo "giá cổ truyền" củanhững người sản xuất cũng như những yếu tố làm giá cả sai lệch với giá trị kinh tế.
    d. Định giá chủ quan.
    Sự sai lệch giữa giá cả và giá trị kinh tế còn có thể do tác động trực tiếp
    của việc định giá giữa người mua và người bán, do các nhân tố hết sức chủ quan quyết định. Tuy nhiên, đây là những hiện tượng ngẫu nhiên và kém ổn định, nhưng cũng cần biết đến để có cách giảm bớt.
    e. Lạm phát và tiền tệ.
    Lạm phát teho cách biểu hiện nay là sự tăng lên một cách phổ biến của
    giá cả hàng hoá dịch vụ. Về mặt lý thuyết có thể coi lạm phát là sự tăng lêncủa mặt bằng giá chung, do đó cũng là sự giảm xuống của sức mua của đơn vị tiền tệ. Trong thực tế mặt bằng giá này được dùng chỉ số để đo lường (như chỉ số giá cả tiêu dùng CPI, chỉ số giá cả sc PPT ).Nhưng khi giá cả tăng lên một cách phổ biến thì cũng chưa có cơ sở cho phép ta khẳng định rằng nó dẫn đến sự sai khác của giá trị kinh tế và giá cả. Thật vậy, sẽ không có điều đó nếu sự gia tăng của giá cả bằng sự gia tăng của giá trị kinh tế. Nhưng trong thực tiễn thì sự gia tăng của giá trị kinh tế thường chậm chạp và ít đột biến, trong khi đó những thời kỳ chúng ta gọi là "lạm phát" thường là bạn đồng hành của đột biến tăng giá với tỷ lệ cao và mang tính hỗn độn Do đó, lạm phát cần được xem như sự sai lệch một cách phổ biến của giá cả so với giá trị kinh tế, giá cả tăng lên theo tỷ lệ nhanh hơn với tỷ lệ tăng của giá trị kinh tế. Trong trường hợp ngược lại là giảm phát.
    Lạm phát còn được hiểu như là sự phát hành "quá lạm" tức là số lượng tiền giấy được phát hành ra vượt quá mức được đảm bảo bằng giá trị thực tế.
    Sự phát hành đó làm cho giá trị thực tế của mỗi đồng tiền giảm xuống so với giá trị danh nghĩa của nó. Nhưng trên thị trường người ta vẫn trao đổi theo trị giá mà trước đây nó vẫn được bảo đảm bằng giá trị thực tế. Trong trường hợp này rõ ràng sự trao đổi không còn theo nữa. Phát hành tiền "không" chính là một trong những nguyên nhân của sự trao đổi không theo giá trị kinh tế.


    KẾT LUẬN
    Như vậy qua những gì đã nghiên cứu ở trên đây chúng ta có thể thấy rằng quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng hoá, nó chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
    Tuy nhiên, tác động của quy luật trong những phương thức sản xuất khác
    nhau là khác nhau và biểu hiện hoạt động của nó trong từng giai đoạn cũng là khác nhau. Quy luật giá trị không biểu hiện quan hệ sản xuất nói chung mà là một biểu hiện của quan hệ sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, nó hoàn toàn khác so với các quan hệ sản xuất trước đó. Chính nhờ những tác dụng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế mà chúng ta đã vận dụng nó khá thành công trong quá trình đổi mới kinh tế, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục.
    Trên cơ sở nghiên cứu về quy luật giá trị trên đây chúng ta đã có định
    hướng cho tương lai của nền kinh tế, tiếp tục phát huy những điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu để nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, vươn lên ngang tầm châu lục và thế giới.

    Do trình độ có hạn nên không tránh khỏi khiếm khuyết trong việc nghiên cứu . Rất mong được đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để các bài viết sau của chúng tôi được hoàn thiện hơn. Nhóm 3 xin chân thành cảm ơn cô giáo Đặng Thị Hoài đã hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình giúp chúng em hoàn thành đề tài thảo luận, cảm ơn sự cộng tác của toàn thể các thành viên trong nhóm.
    Tài liệu tham khảo
    Giáo trình " Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin". Nxb. Chính trị quốc gia- sự thật. Hà Nội.2012
    Giáo trình "Triết học Mác- Lênin ". Nxb Chính trị quốc gia. Hà nội. 2006
    Thư viện ***********
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...