Thạc Sĩ Quy hoạch sử dụng đất Nông – Lâm nghiệp cho Xã Hữu Vĩnh – Huyện Bắc Sơn – Tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 20

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU
    Được sự đồng ý của Nhà trường, Khoa Lâm học, cùng với sự hướng dẫn của ThS. Lê Tuấn Anh và sau một thời gian làm việc khẩn trương đến nay tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp:
    “ Quy hoạch sử dụng đất Nông – Lâm nghiệp cho Xã Hữu Vĩnh – Huyện Bắc Sơn – Tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2013 – 2022”
    Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Lê Tuấn Anh, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi tận tình trong suốt quá trình làm khóa luận.
    Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể thầy cô giáo trong Khoa Lâm học và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
    Xin gửi lời cảm ơn tới Ủy ban nhân dân xã Hữu Vĩnh, tới tập thể cán bộ, bà con nhân dân trong xã đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập tại xã.
    Tuy đã cố gắng để hoàn thành khóa luận tốt nhất, song do còn hạn chế về thời gian, kinh nghiệm, điều kiện nghiên cứu nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi kính mong nhận được sự nhận xét, bổ sung, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để bài khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
    Tôi xin chân thành cảm ơn.
    Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2012
    Sinh viên


    Dương Thị Út Nhâm




    DANH MỤC BẢNG BIỂU

    Biểu 3.1: Biểu cơ cấu kinh tế của xã Hữu Vĩnh. 17
    Biểu 3.2: Biểu điều tra về trồng trọt ( năm 2011) 21
    Biểu 3.3: Biểu hiện trạng sử dụng đất đai xã Hữu Vĩnh. 25
    Biểu 3.4: Dự báo tình hình gia tăng dân số và hộ gia đình qua các năm trong kỳ quy hoạch 29
    Biểu 3.5. Biểu cân đối thu chi cho 1 ha một số loài cây trồng hàng năm 30
    Biểu 3.6. Biểu ước tính hiệu quả kinh tế của cây ăn quả trên 1 ha. 30
    Biểu 3.7. Biểu ước tính hiệu quả kinh tế của 1 ha rừng trồng. 31
    Biểu 3.8. Biểu quy hoạch sử dụng đất cho xã Hữu Vĩnh giai đoạn 2013-2022. 34
    Biểu 3.9: Biến động sử dụng đất xã Hữu Vĩnh giai đoạn 2013-2022. 39
    Biểu đồ 3.1. Biến động cơ cấu đất đai trước và sau quy hoạch. 40
    Sơ đồ 3.1: Sơ đồ chu chuyển đất đai trước và sau quy hoạch. 41
    Biểu 3.10: Kế hoạch sử dụng đất cho xã Hữu Vĩnh. 43
    Biểu 3.11. Tổng hợp nhu cầu vốn và hiệu quả sản xuất nông lâm nghiệp trong 10 năm tới 50

    DANH MỤC HÌNH ẢNH

    Hình 3.1. Xã được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi .15
    Hình 3.2. Hồ Pác Mỏ 16
    Hình 3.3. Mương nội đồng đã được bê tông hóa 18
    Hình 3.4. Trụ sở UBND xã .19
    Hình 3.5. Ruộng trồng cây thuốc lá 21
    Hình 3.6. Rừng hồi trồng trên địa bàn xã 23

    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là nguồn lực quan trọng phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia nói chung và của địa phương nói riêng. Xã hội ngày càng phát triển, các nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng và đa dạng (đất ở, đất xây dựng công trình, đất phát triển các ngành sản xuất Nông – Lâm nghiệp ) đòi hỏi con người phải bố trí sử dụng đất sao cho có kế hoạch và hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất ra đời ngày càng hoàn thiện và phát triển.
    Đối với vùng nông thôn miền núi thì hoạt động sản xuất chính là Nông – Lâm nghiệp vì vậy việc quy hoạch đất đai càng trở nên quan trọng. Trên thực tế nước ta đã hoàn thành công tác quy hoạch tổng thể, tuy nhiên đối với mỗi vùng, mỗi địa phương lại có những đặc trưng khác nhau về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội. Vì vậy công tác quy hoạch càng chi tiết càng tốt trong đó quy hoạch cấp xã là một yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển của đất nước.
    Theo luật đất đai, quy hoạch sử dụng đất là bắt buộc đối với cấp xã vì vậy quy hoạch sử dụng đất phải đi trước một bước làm cơ sở cho quy hoạch các chuyên ngành. Để quy hoạch sử dụng đất cần phải đánh giá được các điều kiện cơ bản về điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên, dân sinh, kinh tế xã hội cũng như hiện trạng quản lý và sử dụng đất đai.
    Hữu Vĩnh là một xã miền núi thuộc huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Qua thực tế điều tra nghiên cứu cho thấy xã có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi tuy nhiên tình hình sử dụng đất đai hiện nay chưa hợp lý cùng với trình độ dân trí còn thấp, khoa học kỹ thuật lạc hậu, cơ sở hạ tầng kém phát triển .do đó kinh tế của xã nhìn chung kém phát triển đặc biệt là trong sản xuất Nông – Lâm nghiệp, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của xã.
    Xuất phát từ thực tế đó, trong khuôn khổ một bài khóa luận tốt nghiệp tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Quy hoạch sử dụng đất Nông – Lâm nghiệp cho xã Hữu Vĩnh – Huyện Bắc Sơn – Tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2013 – 2022” nhằm góp phần quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai trên địa bàn xã một cách hợp lý.
    PHẦN 1
    TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
    1.1. Khái quát về quy hoạch sử dụng đất
    1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
    Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất một cách đầy đủ, hợp lý có hiệu quả cao thông qua việc phân phối và tái phân phối lại quỹ đất. Tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường.
    Quy hoạch sử dụng đất vừa mang tính kinh tế, kỹ thuật vừa mang tính pháp chế.
    Biểu hiện của tính kỹ thuật là ở chỗ, đất đai được đo đạc vẽ thành bản đồ, tính toán và thống kê diện tích, thiết kế và phân chia khoảnh thửa thành các mục đích sử dụng khác nhau.
    Về mặt pháp lý: đất đai được nhà nước giao cho các tổ chức hộ gia đình và cá nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau. Nhà nước ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh các mối quan hệ đất đai. Các đối tượng sử dụng đất có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách về đất đai của nhà nước.
    Khi giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cần xác định rõ mục đích của việc sử dụng. Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả cao tiềm năng đất. Song điều đó chỉ thực hiện được khi tiến hành đồng bộ các biện pháp kỹ thuật và pháp chế .
    Quy hoạch sử dụng đất tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất phân phối đất đai cho tất cả các ngành, các lĩnh vực và tổ chức sử dụng đất hợp lý giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực với nhau. Vì mỗi một ngành, một lĩnh vực cần một loại diện tích khác nhau, thích hợp với một loại đất khác nhau. Chính việc sử dụng đất hợp lý, hiệu quả đã đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội, môi trường.
    1.1.2 Nguyên tắc cơ bản của quy hoạch sử dụng đất
    Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần phải tuân theo những quy tắc như sau:
    - Phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
    - Được lập từ tổng thể đến chi tiết, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên, kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt.
    - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên phải thể hiện nhu cầu sử dụng đất của cấp dưới.
    - Sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả.
    - Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
    - Bảo vệ, tôn tạo di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh.
    - Dân chủ và công khai.
    - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của mỗi kỳ phải được quyết định, xét duyệt trong năm cuối của kỳ trước đó.
    1.2. Tình hình nghiên cứu quy hoạch SDĐ trên thế giới và trong nước
    1.2.1. Trên thế giới
    Lịch sử quy hoạch sử dụng đất Lâm – Nông nghiệp trên thế giới đã được bắt đầu từ thế kỷ thứ XVII. Theo Olschowy vào thời gian quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh, Châu Âu xem như là một lĩnh vực ở mức độ cao trên cơ sở QHSDĐ. Cuối thế kỷ thứ XVIII, quy hoạch đô thị phát triển mạnh ở Châu Âu “ Lý thuyết về khu công nghiệp” Johan H.Thuenen vào năm 1826 đã đánh dấu mốc lịch sử về lợi dụng công tác Nông Nghiệp tại Đức.
    QHSDĐ đã được xác nhận như một chuyên ngành và đã được các nước phát triển trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ rất sớm và đã đạt được rất nhiều thành tựu. Lịch sử về QHSDĐ đã trải qua hàng trăm năm nghiên cứu và phát triển, những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất đã được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả nhất.
    Tại Mỹ, năm 1929 bang Wiscosin đã cho ra đạo luật sử dụng đất đai và việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất đai đầu tiên cho vùng Oneide, kế hoạch này đã xác định các diện tích đất sử dụng cho lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi vui chơi giải trí.
    Tại châu Âu, năm 1946, Jacks đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên gọi “ Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đánh giá khả năng của quỹ đất cho QHSDĐ. Đến năm 1966 hội Đất học Mỹ và hội nông học Mỹ đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng của nó trong QHSDĐ. Từ năm 1967, Hội đồng Nông nghiệp châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO, tổ chức hội nghị về phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị đều khẳng định rằng, quy hoạch các ngành sản xuất như nông lâm nghiệp, chăn nuôi phải dựa trên cơ sở QHSDĐ.
    Thời kỳ những năm của thập kỷ 50 tới thập kỷ 70 của thế kỷ XX, trên thế giới nhấn mạnh đến nghiên cứu về đánh giá đất đai trong QHSDĐ. Sau đó đã có nhiều cuộc thảo luận của các chuyên gia được tiến hành. Nội dung của các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vi mô. Như vậy quy hoạch cấp vi mô đã được chú ý đến ngay từ thập kỷ 70, và thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều thuật ngữ như: Quy hoạch địa phương, quy hoạch vi mô, quy hoạch thôn bản, quy hoạch cùng tham gia
    Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất với 4 câu hỏi:
    1) Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu của quy hoạch là gì ?
    2) Có các phương án sử dụng đất nào đang tồn tại ?
    3) Phương án nào là tốt nhất ?
    4) Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào ?
    Tài liệu Hội thảo giữa trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và Trường Tổng hợp Kỹ thuật Dresden, vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong quy hoạch sử dụng đất .
    Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước quy hoạch sử dụng đất đa mục tiêu. Nhằm nhấn mạnh việc xác định các mục tiêu và lựa chọn phương pháp lập kế hoạch phù hợp như: chuẩn đoán thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện điều phối và giám sát.
    Theo Purnel thì mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất được các chuyên gia xác định là: “ thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng năng suất, bảo vệ môi trường”. Cũng trong năm 1988, Dent và nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu sâu về quy trình quy hoạch. Ông đã khái quát quy trình quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối liên hệ của các cấp: Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng, cấp cộng đồng. Dent đã có công khái quát định hướng quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương, ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 10 bước và 4 giai đoạn.
    Công tác quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân được đề cập khá đầy đủ và toàn diện bởi các nhà khoa học trong hội thảo giữa trường Đại học lâm nghiệp (VFU) và trường Tổng hợp kỹ thuật Dresden (TU Dresden). Trong hội thảo này, các vấn đề về phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân cấp hạng đất đã được phần tích đánh giá một cách sâu sắc.
    1.2.2. Trong nước
    Các vấn đề nghiên cứu đất đai, quy hoạch sử dụng đất được bắt đầu từ rất sớm. Từ thế kỷ thứ XV Lê Quý Đôn đã tổng kết nhiều kinh nghiệm của mình về canh tác nông nghiệp từ trong “ Vân đài loạn ngữ” nhằm giúp người dân đạt năng suất lao động cao trong sản xuất nông nghiệp.
    Trong thời kỳ Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất đã được các nhà khoa học nghiên cứu và phát triển với quy mô rộng. Từ năm 1955 đến 1975, các công tác điều tra và phân loại đất đã được tổng hợp một cách hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc.
    Năm 1975, các số liệu nghiên cứu về phân loại đất được thống nhất. Xoay quanh chủ đề về phân loại đất đã có nhiều công trình triển khai thực hiện trên vùng sinh thái ( Ngô Nhật tiến 1986, Đỗ Đình Sâm 1994 ). Tuy nhiên các công trình này chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu cơ bản, chưa có các biện pháp cho việc sử dụng đất.
    Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 [6] nêu: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài”( Điều 18).
    Để góp phần quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, trong nhiều năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và các văn bản dưới luật cũng như thông tư hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác quy hoạch sử dụng đất cấp xã như Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai sửa đổi 1998 và 2003, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Nghị định 01/CP năm 1994, Nghị định 02/CP năm 1995, Nghị định 163/CP ). Đây là cơ sở pháp lý làm tiền đề cho công tác quy hoạch cấp xã.
    Từ những năm 1993, những thí điểm đầu tiên về nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp được thực hiện tại các xã: Tử Nê, Hang Kìa, Pà Cò thuộc tỉnh Hòa Bình, sau đó dự án cũng đã tổng hợp và rút ra được những bài học kinh nghiệm trong công tác quy hoạch sử dụng đất.
    Năm 1996, công trình “ Quy hoạch sử dụng đất ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta” do Bùi Quang Toàn đề xuất. Cũng trong năm 1996, Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh, đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản của quy hoạch cấp xã, 6 nguyên tắc đó là:
    - Kết hợp hài hòa ưu tiên của Chính phủ với người dân địa phương
    - Tiến hành trong khuôn khổ Luật pháp hiện hành và các nguồn lực hiện tại trên địa phương.
    - Đảm bảo tính công bằng chú trọng đến cộng đồng dân tộc miền núi, người nghèo và vai trò của người phụ nữ.
    - Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia
    - Đảm bảo việc phát triển bền vững
    - Kết hợp hướng mục tiêu phát triển cộng đồng.
    Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thụy Điển giai đoạn 1996 – 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp ở các xã trên cơ sở phát triển các thôn bản và hộ gia đình [7]
    Năm 1997, Chương trình tập huấn dự án hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của trường Đại học Lâm nghiệp đã đề cập đến các phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân. Các tác giả: Lý Văn Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình đã phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tài liệu với những vấn đề chính như sau:
    - Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia.
    - Các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân.
    - Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn.
    - Thực hành tổng hợp.
    Tác giả Trần Hữu Viên (1997) đã xây dựng tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân đã kết hợp phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã trình bày về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia.
    Trong tài liệu hướng dẫn công tác quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân, Đoàn Diễm (1997) đã tập trung vào các chủ đề sau:
    - Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam.
    - Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp của dự án GCP/VIE/024/ITA.
    - Những tồn tại của quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam và thế giới.
    - Kiến nghị phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp đơn giản có sự tham gia của người dân.
    Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam [14] tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành QHSDĐ, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch sử dụng đất 3 cấp: Xã, thôn, hộ gia đình. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78 thôn, bản được quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia.
    Từ những kết quả nghiên cứu đề tài nghiên cứu sinh của Nguyễn Bá Ngãi cùng nhóm tư vấn của dự án khu vực Lâm Nghiệp Việt Nam – ADB [7] đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch Nông – Lâm Nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án Nông Lâm Nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hóa, Gia Lai, Phú Yên, Quảng Trị.
    Trong giai đoạn 2000 - 2005, Dự án phát triển nông thôn Sơn La, Lai Châu do Liên minh Châu Âu tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Mục tiêu của Dự án là cải thiện an toàn lương thực ở khu vực Miền núi phía Bắc Việt Nam thong qua việc sử dụng bền vững và hữu ích nguồn tài nguyên thiên nhiên ở hai tỉnh Sơn La và Lai Châu. Những hoạt động chính của Dự án đó là: Quy hoạch sử dụng đất và giao đất, quản lý rừng đầu nguồn và phân loại đất lâm nghiệp, cải thiện giống cây trồng trên nương, cải tiến chăn nuôi, tăng cường dịch vụ khuyến nông và đào tạo.
    Dự án phát triển nông thôn Cao Bằng, Bắc Cạn thực hiện các hoạt động quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp, tăng cường kỹ năng nông lâm kết hợp cho 41 bản với 1.155 người tham gia bao gồm các kỹ thuật viên nông nghiệp, quản lý trồng trọt và lập kế hoạch phát triển thôn bản, đồng thời phát triển được 612 mô hình ở Bắc Cạn và 89 mô hình ở Cao Bằng.
    Trong những năm gần đây, các chương trình và dự án nông lâm nghiệp như dự án PAM, dự án trồng rừng Việt - Đức (KWF) tại Lạng Sơn, Bắc Giang, Thanh Hoá, Quảng Ninh . do GTZ tài trợ cũng đã sử dụng triệt để phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia. Về mặt lý luận, một số đề tài nghiên cứu của Đinh Văn Đề, Nguyễn Hữu Tân, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Phúc Cường . cũng đã tiến hành ở một số địa phương, có những đánh giá và kết quả có ý nghĩa thực thực tiễn nhất định.
    Việt Nam đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về quy hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô, nhưng cấp vi mô còn có nhiều hạn chế. Ở cấp vi mô mới chỉ nghiên cứu chủ yếu đối tượng đất phục vụ cho sản xuất mà chưa đưa ra được vai trò quan trọng đối với môi trường sinh thái. Công tác quy hoạch thường dựa vào ý kiến chủ quan của các nhà quy hoạch, thiếu sự đóng góp và tham gia của người dân, dẫn đến không khai thác đươc kinh nghiệm, do đó tính khả thi không cao. Hơn nữa phương pháp quy hoạch thường dựa trên thuộc tính của đất đai mà không xem xét đến tiềm năng đất đai, nhu cầu và khả năng của cộng đồng.
    Công tác QHSDĐ được áp dụng ở Việt Nam tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
    - Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai củng cố và hoàn thiện các đơn vị sử dụng đất
    - Sử dụng tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ thiên nhiên.
    - Sử dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung và của từng ngành nói riêng trong đó ưu tiên ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp.
    - Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ thực hiện những nhiệm vụ kế hoạch của nhà nước, của riêng ngành Nông, Lâm nghiệp và từng đơn vị sản xuất cụ thể.
    - Tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ để nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở các biện pháp quản lý kinh tế tiên tiến, nâng cao độ màu mỡ của đất, nâng cao trình độ canh tác và hiệu quả sử dụng đất.
    - Phải tính đến điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cho từng vùng, từng xí nghiệp, từng đơn vị sản xuất.
    * Đánh giá ban đầu về vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam và địa phương
    Đánh giá, phân tích các nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất ở Việt nam có thể rút ra một số kết luận sau:
    - Việt Nam đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về quy hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô song cấp vi mô còn nhiều hạn chế mới nghiên cứu chủ yếu đối tượng đất phục vụ cho sản xuất mà chưa chỉ ra được vai trò quan trọng của môi trường sinh thái.
    - Phương pháp quy hoạch còn nhiều hạn chế và thiếu thống nhất, phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân đã được áp dụng ở một số địa phương nhưng chưa tổng kết xác định đối tượng tham gia và vai trò của họ.
    - Thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch rừng với quy hoạch nông lâm nghiệp và các ngành khác (Giao thông, thuỷ lợi, xây dựng ). Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến mâu thuẫn và chồng chéo trong các nội dung quy hoạch sử dụng đất. Các quy hoạch này thiếu tính dự báo dài hạn nên nhiều bản quy hoạch phải liên tục bổ sung, điều chỉnh gây mất ổn định trong chỉ đạo và quản lý.
    - Mâu thuẫn giữa một bên là cá nhân, hộ gia đình thiếu đất sản xuất với một bên là các tổ chức lâm nghiệp của nhà nước được giao nhiều đất nhưng quản lý sử dụng không có hiệu quả.
    Kết quả nghiên cứu về sử dụng đất dốc mới chỉ được áp dụng cho đối tượng đất sản xuất nơi người dân có trình độ canh tác khá cao, còn ở những nơi vùng sâu, vùng xa nơi trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì chưa được nghiên cứu đầy đủ.
    Công tác quy hoạch thường dựa vào ý kiến chủ quan của các nhà quy hoạch, thiếu sự đóng góp và tham gia của người dân. Vì vậy không khai thác được kinh nghiệm của người dân địa phương và tính khả thi không cao. Hơn nữa phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai, ít xét đến tiềm năng đất đai, nhu cầu và khả năng của cộng đồng. Cơ sở khoa học cho quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã chưa rõ ràng, thực tiễn về quy hoạch cấp xã chưa nhiều để tổng kết đánh giá.
    Phương pháp tiếp cận và chuyển giao kỹ thuật còn nặng về xây dựng mô hình, chưa thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện đồng thời ít chú ý đến các yếu tố phi kỹ thuật như tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ và yếu tố tiếp thị nhằm đảm bảo cho các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao và trình diễn, phát huy hiệu quả và bền vững.
    Từ những hạn chế trên đề tài sẽ tiến hành áp dụng nghiên cứu một số vấn đề như phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong quy hoạch, phương pháp đánh giá đất đai, phân tích hệ thống canh tác, lựa chọn cơ cấu tập đoàn cây trồng, xác định phương thức, phương pháp và định hướng sử dụng các loại đất trên địa bàn khu vực nghiên cứu.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...