Tài liệu Quy định về việc ban hành văn bản qua các Hiến pháp nước ta

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Quy định về việc ban hành văn bản qua các Hiến pháp nước ta




    Ban hành văn bản là hoạt động đặc biệt quan trọng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì thế, có nhiều quy định liên quan tới việc ban hành .


    1. Chương trình ban hành văn bản pháp luật




    Trong Hiến pháp năm 1946 mới chỉ có quy định về dự án ngân sách hàng năm (Điều 52); Hiến pháp năm 1959 có quy định thêm về “kế hoạch kinh tế nhà nước” (Điều 50) mà chưa có quy định về việc lập và phê chuẩn chương trình xây dựng pháp luật. Điều đó phù hợp với tình hình đất nước đang có chiến tranh nên Nhà nước chưa thể quan tâm tới công tác xây dựng pháp luật. Bước sang thời bình, ngoài lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước còn quan tâm tới nhiều lĩnh vực hoạt động khác, vì vậy trong Hiến pháp năm 1980, vấn đề kế hoạch được mở rộng phạm vi thành “kế hoạch nhà nước” (Điều 83), trong đó có kế hoạch (chương trình) xây dựng pháp luật. Phát triển thêm một bước, thể hiện quan điểm của Đảng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, ở Hiến pháp năm 1992 “chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” được quy định riêng, tách ra khỏi “kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (Điều 84).




    2. Các hình thức văn bản pháp luật được quy định trong hiến pháp




    Các quy định về hình thức văn bản pháp luật qua bốn bản hiến pháp đã có những thay đổi nhất định và đã có sự phát triển đáng kể.


    Sự phát triển đó, trước hết thể hiện trong kỹ thuật soạn thảo, từ hướng quy định gián tiếp về thẩm quyền hình thức của một số chủ thể và đặt các quy định đó lẫn lộn với quy định về những vấn đề khác trong cùng một điều (Điều 36, 37 Hiến pháp năm 1946; Điều 53, 63, 64 Hiến pháp năm 1959 ) đã phát triển theo hướng quy định trực tiếp thẩm quyền hình thức của chủ thể và tách riêng quy định về

    thẩm quyền hình thức của chủ thể thành một điều độc lập (Điều 115, 116 Hiến pháp năm 1992 ).


    Đồng thời, sự phát triển đó cũng thể hiện trong việc thay đổi quy định về thể loại văn bản của một số chủ thể cho phù hợp với chức năng của các chủ thể. Xin đơn cử về các thể loại văn bản của Chính phủ:


    Theo Hiến pháp năm 1946, Chính phủ có sắc lệnh, đến Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị (Điều 73) nên Chính phủ có vai trò độc lập, chủ động hơn trong việc điều hành. Theo Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư (Điều 109), do đó cũng tạo ra sự chủ động cho Chính phủ trong việc điều hành, nhưng việc quy định quá nhiều thể loại là không cần thiết. Đến Hiến pháp năm 1992 thì Chính phủ có Nghị quyết, Nghị định, Thủ tướng có Quyết định, Chỉ thị (Điều 115), do đó đã bảo đảm sự chủ động Chính phủ và của Thủ tướng trong việc điều hành.


    3. Thủ tục ban hành văn bản pháp luật




    3.1. Thẩm quyền trình dự án văn bản pháp luật




    Thẩm quyền của Chính phủ trong việc trình dự án văn bản pháp luật ra trước Quốc hội (Nghị viện) và Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Ban thường vụ, Hội đồng Nhà nước) là quy định xuyên suốt bốn bản Hiến pháp (các Điều 52 Hiến pháp năm 1946, Điều 74 Hiến pháp năm 1959, Điều 107 Hiến pháp năm 1980 và Điều 112
    Hiến pháp năm 1992).




    Ngoài Chính phủ, trong Hiến pháp năm 1980, thẩm quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội còn thuộc về Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Quốc phòng, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ

    quốc, các chính đảng, Tổng Công đoàn, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ (Điều 86). Quy định này một mặt đã tạo ra cơ chế phát huy dân chủ rộng rãi và hữu hiệu hơn so với các Hiến pháp trước đó, mặt khác đã góp phần tích cực trong việc nâng cao năng lực của Quốc hội trong việc hoàn thiện hệ thống các đạo luật.


    Đến Hiến pháp năm 1992, thẩm quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội về cơ bản vẫn được quy định như Hiến pháp năm 1980 nhưng có bớt hai chủ thể là Chủ tịch Quốc hội và các đại biểu Quốc hội để phù hợp với tình hình thực tiễn nước ta. Đồng thời do có sự chuyển biến của tình hình, vào thời điểm đó ngoài Đảng Cộng sản ra không còn một đảng phái chính trị nào khác nên thẩm quyền trình dự án luật, ngoài Chính phủ còn thuộc về Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận (Điều 87).


    3.2. Thủ tục thông qua dự án văn bản pháp luật




    Về thủ tục thông qua văn bản pháp luật của Nghị viện, Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 29: “Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mới được biểu quyết. Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt. Nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viên có mặt bỏ phiếu thuận”. Còn đối với Ban thường vụ thì: “Phải có quá nửa số nhân viên bỏ phiếu thuận, những nghị quyết mới có giá trị” (Điều 37).


    Trong các Hiến pháp sau đó, thống nhất hướng quy định là các văn bản pháp luật của Quốc hội chỉ được thông qua khi có quá nửa (trong một số trường hợp cụ thể được quy định thì phải có ít nhất là hai phần ba) số đại biểu của Quốc hội (mà không phải là đại biểu có mặt tại phiên họp) đồng ý.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...