Tiểu Luận Quy chế thị trường và điều tra chống bán phá giá

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tiểu luận nhóm
    Đề tài: Quy chế thị trường và điều tra chống bán phá giá
    Định dạng file word kèm slide thuyết trình


    MỤC LỤC
    LỜI NÓI ĐẦU 2
    1. Một số nét khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá 3
    1.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường. 3
    1.1.1. Định nghĩa nền kinh tế phi thị trường. 3
    1.1.2. Cách thức xác định một nền kinh tế phi thị trường. 6
    1.2. Điều tra chống bán phá giá. 12
    1.2.1. Khái niệm về bán phá giá. 12
    1.2.2. Biện pháp chống bán phá giá và điều kiện áp dụng. 13
    1.2.3. Các bước điều tra chống bán phá giá. 14
    2. Thực tiễn điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu có nguồn gốc từ Việt Nam 25
    2.1. Thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận quốc gia thay thế trong quy chế áp dụng đối với nền kinh tế phi thị trường. 28
    2.2. Thực tiễn áp dụng phương pháp tiếp cận như trường hợp của nền kinh tế thị trường (market economy treatment – MET) 32
    3. Các giải pháp đối phó với những vụ kiện chống bán phá giá của Việt Nam hiện nay 49


    LỜI NÓI ĐẦU
    Thương mại quốc tế không phải là một cuộc chơi công bằng như những gì chúng ta nhìn thấy, ở đó, quyền lợi của những quốc gia giàu có, quyền lực, luôn được đề cao và bảo vệ, và những quốc gia thuộc thế giới thứ ba, đang phát triển chính là những đối tượng phải chấp nhận những quy luật có sẵn, dù không phải bao giờ họ cũng được hưởng lợi ích từ quy tắc cuộc chơi mang lại. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi mặt hàng cá tra, cá ba sa của Việt Nam bị chính phủ Mỹ áp thuế chống bán phá giá gần 10 năm trời, và hiện nay vẫn chưa có động thái khả quan nào cho việc gỡ bỏ, dù cho Việt Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này cho thấy rằng, chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ khi gia nhập thương mại quốc tế. Có thể thấy để thoát khỏi tình trạng khó khăn cho Việt Nam trước nền kinh tế hội nhập chỉ có một con đường là minh bạch hóa hoạt động kinh doanh và áp dụng nền kinh tế thị trường. Trong đó, mối liên hệ giữa cớ chế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá là vấn đề cần được xem xét để tránh những hậu quả như vụ kiện cá da trơn, giày da, gạo, tôm
    Vậy thế nào là cơ chế thị trường, thế nào là là phi thị trường, tại sao phải áp dụng cơ chế thị trường và tiến tới xóa bỏ cơ chế phi thị trường, điều tra bán phá giá có liên quan gì đến quốc gia không được công nhận có nền kinh tế thị trường Thực tiễn cho thấy trong tất cả các vụ kiện bán phá giá mà ta đối mặt, điểm yếu lớn nhất dẫn đến sự thua thiệt chính là cơ quan điều tra không tin tưởng những số liệu mà các doanh nghiệp ta cung cấp, vì nước ta không được công nhận có nền kinh tế thị trường. Ta có thống kê sơ bộ sau: tính đến tháng 3/2006 chúng ta đã phải đối phó với 21 vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện Việt Nam nhiều nhất (8 vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxyde kẽm. Trong phạm vi bài tiểu luận, chúng ta sẽ đi phân tích kỹ các ưu điểm của việc vận dụng quy chế thị trường vào xuất khẩu, các biện pháp chống lại những cáo buộc phi lí mà tòa án nước nhập khẩu gán cho các DN xuất khẩu, đặc biệt là việc suy ngẫm về các bản án về bán phá giá mà Việt Nam là bị đơn. Bài học rút ra được từ những kinh nghiệm quí báu này chính là hành trang không thể thiếu cho việc tiếp tục hội nhập trong tương lai.
    1. Một số nét khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trường và điều tra chống bán phá giá
    1.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường
    1.1.1. Định nghĩa nền kinh tế phi thị trường
    Bắt nguồn từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô Viết năm 1935, khái niệm về Nền kinh tế phi thị trường đã bắt đầu xuất hiện. Sau thế chiến thứ hai, xuất hiện thêm thuật ngữ “các quốc gia thương mại nhà nước”, đây là tên gọi chung chon các quốc gia mà ở đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngoại thương, chủ yếu là ở các nước Đông Âu. Hiện tượng nhà nước độc quyền tuyệt đối trong hoạt động giao dịch ngoại thương đã làm cho các nhà kinh tế học cũng như chính trị gia chuyển sang nghiên cứu một đặc tính mới của hệ thống kinh tế phi thị trường, có tên là hệ thống kế hoạch hóa tập trung. Theo đó, đã xuất hiện thuật ngữ “nền kinh tế kế hoạch tập trung”, thuật ngữ này đã thay thế “nền kinh tế nhà nước kinh doanh”. Trong Luật Hải quan Hoa Kỳ năm 1973, thuật ngữ “quốc gia nền kinh tế tập trung” lần đầu tiên đã xuất hiện. Cùng thời kỳ đó, thuật ngữ “Nhà nước Xã hội chủ nghĩa” đã được đề cập trên thế giới. Với sự bắt đầu cải cách thị trường trong hầu hết các nền kinh tế kế hoạch tập trung vào những năm 1980 và đầu 1990, hiện tượng này đã trở thành phổ biến và được gọi là “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường” (Transaction to a market economy). Tuy nhiên, cùng với sự xác định khái niệm “các quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi” (transaction countries) thì thuật ngữ nền kinh tế phi thị trường cũng được sử dụng lại.
    Như vậy, Nền kinh tế phi thị trường được hình thành như một điều tất yếu trong sự vận động và phát triển của kinh tế xã hội từ những năm đầu thế kỷ XX, nhằm xác định ra các quốc gia có nền kinh tế chịu sự quản lý và can thiệp sâu của Nhà nước. Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc (UNCTAD)[1] đã đưa ra khái niệm để xác định Nền kinh tế phi thị trường và Nền kinh tế thị trường như sau[2]:
    [​IMG] Một quốc gia được coi là có nền kinh tế thị trường khi nền kinh tế đó phải dựa chủ yếu vào lực lượng thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ.
    [​IMG] Một quốc gia có nền kinh tế phi thị trường khi đó là thị trường mà Chính phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông qua cơ chế quản lý tập trung, chẳng hạn như các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây, trái ngược với nền kinh tế thị trường là phụ thuộc vào lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế phi thị trường, mục tiêu sản xuất, giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên liệu thô, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết các tổ hợp kinh tế khác được điều chỉnh bởi nền kinh tế kế hoạch được lập ra bởi cơ quan kinh tế kế hoạch tập trung; do vậy, khu vực công đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân.
    Cơ quan phát triển thương mại Liên Hiệp Quốc cũng đã sử dụng thuật ngữ “các quốc gia thương mại nhà nước” và “nhóm D”[3] để phân biệt một nền kinh tế phi thị trường với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ngày nay ít có quốc gia nào có hệ thống kế hoạch tập trung hoàn toàn, mà có một số đặc điểm để nó được định hướng là một nền kinh tế chuyển đổi. Ngoài Cơ quan phát triển thương mại Liên
    [HR][/HR][1] United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD.

    [2] Dựa trên thuật ngữ hải quan của UNCTAD về Nền kinh tế thị trường (market economy - ME), Nền kinh tế phi thị trường ( non – market economy - NME).

    [3] Gồm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tham gia UNCTAD.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...