Tiểu Luận Quan niệm của con người trong triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến quá trình xây dựng con ngườ

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU

    Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà của cả nhân loại. Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thế kỷ III TCN kéo dài đến thế kỷ II TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền và bạo lực, mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được chia thành 2 thời kỳ lớn:

    ã Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu)

    ã Thời Xuân Thu-Chiến Quốc

    Chính sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong các thời kỳ này, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời hàng loạt các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử của nhân loại.

    Trong thời kỳ này xuất hiện nhiều trường phái triết học khác nhau và Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hóa góp phần làm phong phú văn hóa Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hóa Hán cùng với sự giao lưu tiếp xúc văn hóa với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau: có những giai đoạn lịch sử, người ta đề cao Nho giáo, coi đó như là chuẩn mực để xây dựng đời sống xã hội, lại có thời gian, người ta phê phán, bài bác, thậm chí phủ nhận Nho giáo. Đương nhiên, khi đã coi Nho giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá trong các giai đoạn lịch sử cũng là việc làm bình thường.

    Nho giáo có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài hằng mấy nghìn năm và phát triển vừa bề sâu, vừa bề rộng. Bề rộng là từ một vùng ra cả Trung Quốc, quê hương của nó, rồi ảnh hưởng đến Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản. Bề sâu là các giai đoạn lịch sử của nó, giai đoạn sau thường phong phú hơn giai đoạn trước hoặc vì phải thích nghi với điều kiện xã hội mới, hoặc vì phải đấu tranh và làm giàu với các luồng tư tưởng tín ngưỡng khác sinh ra từ nội địa hoặc nhập vào từ nước ngoài. Có nhà khoa học chú trọng đến “tính không hoàn chỉnh” của nó; nó không phải nhất thành bất biến; nó chuyển biến luôn và hãy xem đó là một sức sống của Nho giáo. Khả năng chuyển biến mà vẫn giữ bản sắc là một điều, một đặc tính đặc biệt của Nho giáo. Cho nên, có Nho giáo trước Khổng Tử Hạ Thương, đầu Chư, có Nho giáo của Khổng tử và các môn đệ trực tiếp; có Nho giáo thời Hán mà á thánh nổi tiếng là Đổng Trọng Thư; sang Đường, Nho giáo và Phật giáo đấu tranh mà chung sống (chưa kể rằng từ Xuân Thu-Chiến Quốc đến đó có bao nhiêu nhà tranh tiếng với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau). Rồi thời Tống , có Nho giáo của nó với những bậc á thánh lừng danh như Nhị Trình, Chu Tử v.v. Sĩ phu Việt Nam đi học thì tự gọi là đến cửa Khổng sân Trình. Một thuở sĩ phu Việt Nam xem Khổng Mạnh, Hán Nho, Tống Nho “ba vì” của Nho giáo, sau đó không có đỉnh nào cao hơn. Nho giáo đã trở thành tư tưởng, văn hoá, in đậm dấu ấn của mình lên lịch sử của một nửa châu Á trong suốt hai nghìn năm trăm năm qua, và cho đến tận hôm nay, dù tự giác hay không tự giác, dù đậm hay nhạt, có khoảng một tỷ rưỡi con người đang chịu ảnh hưởng học thuyết Nho gia, học thuyết này đã trở thành cốt lõi của cái mà ta gọi là văn hóa phương Đông. Dĩ nhiên, nó có những hạn chế nhất định, trước hết là những hạn chế của thời đại, nhưng những tích cực, đóng góp của nó cho phép biện chứng duy vật, tuy mộc mạc đơn sơ nhưng thật đáng trân trọng và chuyên đề này không ngoài việc đề cập đến tinh thần cơ bản ấy.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...