Chuyên Đề Quan niệm của Các Mác về sự vận động lịch sử của Cái Đẹp trong một số hình thái kinh tế

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu


    Một trong những kết luận quan trọng được C.Mác rút ra từ quá trình nghiên cứu về cái đẹp tất yếu này sinh trong tiến trình phát triển của lịch sử. Quy luật của cái đẹp không "nhất thành biết biến" từ một hình thức lao động, một hình thái xã hội nào. Cái đẹp có quy luật phổ biến từ thực tiễn thẩm mỹ. Ở mỗi hình thái xã hội nào, quy luật ấy có sự vận động và biểu hiện khác nhau. Ngoài những biểu hiện khác nhau còn xuất hiện cãn quy luật khác nhau. Từ tính phong phú của thực tiễn sáng tạo, C.Mác đã đưa ra quan niệm khái quát vấn đề sự vận động lịch sử của cái đẹp trong một số hình thái kinh tế - xã hội.

    C.Mác cho rằng, quy luật của cái đẹp gắn liền với lao động, với năng lực bản chất của con người. Trong một xã hội mà ở đó lao động bị tha hoá, cái đẹp không có điều kiện để phát triển. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác viết: "Theo những quy luật mà kinh tế chính trị học đề ra thì sự tha hoá của công nhân trong vật phẩm của mình, biểu hiện như sau: Công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng bị mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh ta tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man . Lao động sản xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những người giàu, nhưng chính nó lại sản xuất rạ bần cùng hoá công nhân. Nó tạo ra lâu đài, nhưng cũng tạo ra cả những nhà ổ chuột cho công nhâ. Nó sáng tạo ra cái đẹp, nhưng cũng làm què quặt công nhân" .

    Đôí với C.Mác, quy luật vận động cơ bản củacái đẹp phải gắn liền với lao động tự do. Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, trong các xã hội tiền tư bản, mặc dầu năng suất lao động còn thấp, các cá nhân và xã hội chưa có sự phát triển tự do và đầy đủ ., nhưng ở những hình thái đó nền sản xuất xã hội đã lệ thuộc vào ldcủa con ngườinhư là mục đích. Bản thân người lao động là chủ nhân của những điều kiện hiện thực của mình, cho nên lao động và sản phẩm của lao động đã đem lại một sự thoả mãn thẩm mỹ nhất định cho họ. Như vậy, nhờ sự tự do, dù ít nhiều còn mang tính chất cục bộ hoặc bị hạn chế về phương diện lịch sử, chẳng hạn như còn ở trong trạng thái sản xuất thủ công, thì những hứng thú, cảm giác của con người về cái đẹp vẫn xuất hiện, bởi vì nhân tố lao động thể chất và lao động trí óc được kết hợp tự do. Theo C.Mác, cơ sỡh để phát triển cái đẹp ở thời kỳ Cổ đại và Phục hưng là sự thống nhất bước đầu giữa người ldvà điều kiện lao động. Và do vậy, có thể nói rằng, ở đâu có lao động tự, lao động không bị cưỡng bức thì ở đó luôn có những mầm mống của sự sáng tạo cái đẹp.

    Trong các chế độ tiền tư bản, nghề thủ công, nền sản xuất vật chất và nghệ thật về cơ bản là không bị tách rời và chia cắt vụn nhỏ. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, thơ ca nói chung đều có tính chất tạo hình, bởi vì chúng gắn bó trực tiếp với nhu cầu của cộng đồng, của công xã thị thành. Hội hoạ, điêu khắc phụ thuộc vào những nhiệm vụ của kiến trúc. Thơ ca gắn bó chặt chẽ với những mục tiêu trực tiếp của tôn giáo, đạo đức, triết học. Do đó, quy luật của cái đẹp được vận động một cách thuận tiện. Cái đẹp thuần tuý không xuất hiện, bởi vì thực tiễn cuộc sống đòi hỏi những cái đẹp phù hợp với nó. Nhà điêu khắc Lixip luyệ cho đẹp thanh kiếm và những chiếc mũ giap để bộc lộ những biểu tượng của thời đại anh hùng, lao động tự do. Raphaen chạm khắc, hoàn thiện các vòm trần và những vòi nước sao cho cái đẹo làm sáng tỏ thời đai. Lêona đờ Vãnhi chế tạo đồ chơi và những quả pháo hoa cũng như nhiều kiến trúc sư xây những toà nhà tạo nên cái đẹp đại diện cho cả thời đại nhân văn.

    Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản dần dần phá vỡ sự thống nhất giữa lao động và quyền sở hữu, thủ tiêu tính toàn vẹn tự nhiên, tính không phân chia giữa phương diện thể chất và phương diện tinh thần của quá trình lao động. Sự mâu thuẫn, thù địch giữa cá nhân và cộng đồng xuất hiện. Tình trạng người trực tiếp sản xuất đã quyết định quá trình tha hoá lao động. sản xuất tư bản chủ nghĩa tước mất nội dung tinh thần của lao động. Trong quá trình đó, người công nhân bị đặt vào vị thế đối lập với những tiềm năng tinh thần của mình.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...