Thạc Sĩ Quán Ngữ tình thái tiếng Việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Thạc Sỹ Quán Ngữ tình thái tiếng Việt

    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài


    Trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ, bên cạnh đơn vị từ còn có
    một số lượng lớn các loại đơn vị ngữ cố định được gọi là quán ngữ
    (QN), Chúng được dùng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
    cũng như trong các bài nói, bài viết, trong sáng tác văn chương, trên đài
    phát thanh, truyền hình, sân khấu, báo chí, Vì vậy, việc nắm hiểu và
    trau dồi khả năng sử dụng những ngữ cố định đó đã trở thành nhu cầu tự
    nhiên của mỗi người.
    Gần đây, cùng với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố con
    người trong ngôn ngữ và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt
    ngữ học ngày càng quan tâm đến vấn đề tính tình thái, ý nghĩa tình thái
    của ngôn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi không có một nội dung nhận
    thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như
    mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá của người nói đối với điều được
    nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và các
    nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
    Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao
    đổi thông tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thông tin và hiệu ứng mà phát
    ngôn tác động đến người nghe đòi hỏi người nói có những thao tác xử lí
    nhất định về mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện
    từ vựng không giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau
    đối với nội dung phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên
    cạnh những thông tin ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận
    thức.
    Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thông tin tình thái nhận
    thức, có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường được gọi là quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét
    đặc thù về cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT
    với ý nghĩa, vai trò của chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi
    thúc chúng tôi tìm hiểu, khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của loại
    đơn vị này với đề tài “Quán ngữ tình thái trong tiếng Việt”.
    Về mặt lí luận, luận văn hi vọng góp phần tìm hiểu một số đặc
    điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa - ngữ dụng của QNTT, một vấn đề từ trước
    đến nay ít được đề cập đến.
    Về mặt thực tiễn, quá trình giải quyết những vấn đề cụ thể về
    QNTT trong luận văn có thể góp thêm ý kiến cho việc biên soạn tài liệu
    nghiên cứu cũng như trong việc vận dụng vào công tác giảng dạy của
    bản thân về những vấn đề có liên quan đến QNTT trong tiếng Việt.

    2. Lịch sử vấn đề

    Như đã nói, trong tiếng Việt, các nhà nghiên cứu từ vựng học đã
    gọi lớp từ chuyên dụng này là QN. Tuy nhiên, cho đến nay, sự nhìn nhận
    và nắm bắt về QN một cách nhất quán, giúp người dạy, người học không
    cảm thấy mơ hồ và nhập nhằng với các khái niệm tương cận vẫn còn là
    vấn đề phía trước. Trong khi các hiện tượng khác thuộc ngữ cố định
    được nghiên cứu một cách có hệ thống thì QN chỉ mới được đề cập đến
    với những nhận định ban đầu. Chúng tôi chỉ tìm thấy được một số ít
    công trình, bài viết (chủ yếu là về từ vựng học) có trình bày sơ lược về
    đơn vị quán ngữ trong tiếng Việt. Các tác giả như Đỗ Hữu Châu,
    Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến QN trong các
    công trình của mình nhưng cũng chỉ là những gợi mở cho các hướng
    nghiên cứu sâu và qui mô hơn. Hoàng Trọng Phiến [22] đã liệt kê được
    gần 500 QN trong công trình từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác
    giả. Đỗ Thanh và các đồng sự đã bổ sung hàng trăm đơn vị nữa trong công trình của họ [15]. Và như đã nói, chúng tôi lấy lớp từ này làm xuất
    phát điểm nghiên cứu.
    Một số tác giả khác đã khảo sát QN một cách gián tiếp như là
    những phương tiện “hiện thực hoá” cho các đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ
    có liên quan trong từ pháp, ngữ pháp, lôgíc-cú pháp, . Cụ thể, Đinh Văn
    Đức đã xác lập khái niệm tình thái và miêu tả lớp tiểu từ tình thái trong
    đó chúng có khả năng được hiện thực hoá bằng QN [10]. Ngoài ra, trong
    các thành phần câu, theo đa số tác giả ngữ pháp tiếng Việt, lớp từ này
    xuất hiện dưới dạng là thành phần phụ tình thái, đề tình thái hoặc thuyết
    tình thái trong câu. Các tác giả phân tích diễn ngôn thì phần nhiều quan
    tâm đến đặc tính liên kết của QN. Vì thế, có thể thấy rằng QN, trong địa
    hạt ngữ pháp, cũng đã từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
    nhau, trong thế đối lập với trạng ngữ, liên ngữ và tình thái ngữ, Thật
    vậy, trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra rất nỗ lực trong việc làm rõ
    vấn đề này. Nhiều tác giả đã thấy được bản chất của QN trong câu đơn
    nhưng không thể xếp chúng vào một thành phần cú pháp nào cả về nên
    đề nghị gọi là phụ chú ngữ (nói trộm bóng, có lẽ, kể ra .). (Nguyễn Kim
    Thản) cho là gia tố (ấy thế, vả lại, mới chết chửa, có ai ngờ, ) (Lưu Vân
    Lăng), hay thành phần xen kẽ (có lẽ, có ai ngờ, .) (Nguyễn Tài Cẩn).
    Trong ngữ pháp chức năng, chúng là yếu tố tình thái làm thành Đề của
    câu được đánh dấu bằng thì (theo ý tôi thì, nếu tôi không nhầm thì, thật
    ra thì .); bằng la (quả là, nói thật là, miễn là .) (Cao Xuân Hạo). Trong
    đó, Nguyễn Văn Hiệp [57] là tác giả đã quan tâm và đầu tư nhiều cho
    việc kiến giải, phân biệt lớp từ này với trạng ngữ, “vị ngữ thứ yếu” (thuật
    ngữ của các tác giả) mặc dù chỉ dưới góc nhìn của ngữ pháp câu và ngữ
    nghĩa lôgic cú pháp. Nguyễn Văn Hiệp đặt tên cho chúng là “định ngữ
    câu”. Tuy nhiên, do cố gắng tìm ra bản chất của các tham tố ngoài cú
    pháp câu, các tác giả trên khá thiên về ngữ nghĩa lôgic-cú pháp. Trong thực tế nói năng, việc sử dụng và ý nghĩa dụng học phong phú của lớp từ
    này vượt hẳn ra cái gọi là “điều kiện sử dụng câu có định ngữ câu” của
    tác giả.
    Diệp Quang Ban đã đề nghị một đơn vị gọi là liên ngữ để chỉ quan
    hệ ngoại hướng, liên kết câu chứa nó với các câu liên quan phía trước mà
    thực chất chính là những QN liên kết. Ngoài ra, có hai công trình nổi bật
    về liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm [85] và liên kết lời nói của
    Nguyễn Thị Việt Thanh [73] đều bàn về QN với cách gọi khác như
    “cụm từ làm thành phần chuyển tiếp”, “từ nối”, .
    Trong khi đó, việc nghiên cứu QN chỉ dừng lại ở những giải nghĩa
    cho từng QN, chỉ ra một vài cách dùng, một số giá trị sử dụng nào đó
    của nó. Nghĩa là các tác giả hoặc chỉ nêu khái niệm QN một cách khái
    lược trong các giáo trình ngôn ngữ (phần từ vựng) hoặc bàn đến một
    cách chung chung về cách phân loại, cách sử dụng và đặc trưng ngữ
    nghĩa của các QN tiếng Việt qua một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí
    chuyên ngành. Chẳng hạn:
    Nguyễn Thị Thìn (2000) với bài “Quán ngữ tiếng Việt” [71] đã
    dựa vào công dụng thường dùng của QN để phân chia nó thành bốn loại.
    Ngô Hữu Hoàng (2002)đđã chỉ ra một số điểm khác biệt giữa
    thành ngữ (TN) và QN, trong bài “Vài suy nghĩ về cụm từ cố định nói
    chung và quán ngữ nói riêng” [42]. Theo đó, tác giả đưa ra kết luận TN
    “là kết quả của việc vay mượn để đúc kết ngữ nghĩa từ vựng (định danh)
    bậc hai nhằm đáp ứng tình trạng nhu cầu phản ánh “nghĩa” của thế giới
    khách quan trong giao tiếp”, còn QN “phục vụ cho các chức năng của lời
    nói, tạo ra một hành vi giao tiếp sao cho có hiệu quả Ngữ nghĩa của nó
    bị hư hóa nên mất tính TN và cấu trúc nội tại từ đó cũng rất lỏng lẻo”.
    Chi tiết hơn là bài viết “Bàn về điều kiện sử dụng của một số
    QNTT nhận thức dưới góc độ lí thuyết quan yếu” của Ngũ Thiện Hùng [45]. Qua khảo sát cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, tác giả đã khẳng định
    “việc sử dụng các QNTT nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các
    yếu tố logic cú pháp mà còn phải tính đến các điều kiện như định hướng
    nội dung hay định hướng quan hệ (động cơ vì người nghe/người nói)”.
    Ngoài ra, các giáo trình về từ vựng học, các từ điển có nêu khái
    niệm QN chẳng hạn:
    Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 2001), Nxb Hà Nội có
    nêu định nghĩa về QN như sau: “là những tổ hợp từ cố định dùng lâu
    thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành (tr.84).
    Nguyễn Thiện Giáp (1990) trong giáo trình “Từ vựng học tiếng
    Việt”, Nxb GD cho rằng QN “là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại
    trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
    dung cần diễn đạt nào đó”.
    Đỗ Hữu Châu (1999) trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” Nxb
    GD lại xếp QN vào phần trung gian giữa ngữ cố định với cụm từ tự do.
    Hoàng Trọng Phiến (2003), “Cách dùng của hư từ tiếng Việt hiện
    đại” có nêu cách dùng của một số QN.
    Cao Xuân Hạo (1991) trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
    năng" (quyển 1) dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm QN hay QNTT,
    nhưng tác giả đã dành một phần trong chương II để mô tả phân tích đặc
    điểm chức năng của các thành phần làm thành Đề tình thái, Thuyết tình
    thái.
    Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên đây ta thấy, cho đến
    thời điểm này, nhiều vấn đề cơ bản của QNTT vẫn còn bỏ ngỏ. Như vậy,
    Quán ngữ tình thái tiếng Việt thực sự là một đề tài hấp dẫn, đáng được
    quan tâm nghiên cứu bởi tính đa loại, đa công dụng và những đặc trưng
    riêng của nó. Từ đó chúng tôi hy vọng góp phần tìm ra hoạt động của
    QNTT để vận dụng vào việc nói, viết tiếng Việt cho tốt. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
    Mục đích của luận văn là tìm ra những đặc điểm ngữ nghĩa- chức
    năng của QNTT. Để đạt được mục đích đó , chúng tôi tập trung giải
    quyết những nhiệm vụ sau:
    - Tìm ra những tiêu chí để nhận diện QNTT tiếngViệt, trên cơ sở đó
    lập một danh sách về QNTT thông dụng.
    - Miêu tả những đặc điểm cơ bản của QNTT về hình thức.
    - Phân tích ngữ nghĩa – chức năng của lớp từ này. Từ đó khảo sát ba
    chức năng cơ bản của QNTT tiếng Việt.

    4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

    4.1. Phương pháp nghiên cứu


    Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong quá trình tiếp cận và phân
    tích đối tượng, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học
    chung như thu thập ngữ liệu, khảo sát, phân loại ngữ liệu , luận văn
    chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
    - Phương pháp phân tích ngôn ngữ học để phân tích ngữ nghĩa
    chức năng của các QNTT thu thập được.
    - Phương pháp miêu tả để trình bày quá trình khảo sát, phân tích
    đối tượng và kết quả nghiên cứu.

    4.2. Nguồn ngữ liệu

    QNTT thường xuất hiện trong khẩu ngữ, trong những lời đối thoại
    trực tiếp của những người tham gia giao tiếp. Nó cũng được liệt kê trong
    một số từ điển tiếng Việt. Vì vậy để tìm ra được các đặc điểm chức năng
    của lớp từ này, tư liệu chủ yếu của luận văn bao gồm:
    - Các tác phẩm, các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn
    chương, chủ yếu là của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, tuyển tập truyện
    ngắn, tạp chí Văn nghệ quân đội,
    - Từ điển tiếng Việt và Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt. 5. Cấu trúc của luận văn
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung gồm 2 chương như
    sau:

    Chương 1: Cơ sở lí thuyết

    Trong chương này, luận văn đã điểm qua vài nét về QN như: khái
    niệm, phân biệt QN với TN, phân loại các QN tiếng Việt (QNTV). Ngoài
    ra, chúng tôi còn đề cập đến một số vấn đề về tình thái trong ngôn ngữ
    học. Theo đó, luận văn đã nêu ra một số đặc điểm bản chất của QNTT
    tiếng Việt.

    Chương 2: Đặc điểm của QNTT tiếng Việt

    Ở chương 2, luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đặc điểm cấu
    tạo, các chức năng ngữ nghĩa cơ bản của QNTT tiếng Việt như chức
    năng đánh giá, chức năng tham gia biểu thị mục đích phát ngôn và chức
    năng biểu thị thái độ, tình cảm của người nói.


    [​IMG]


     
Đang tải...