Thạc Sĩ Quản lý rủi ro của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Nghệ An

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/9/16.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT . i
    DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU . ii
    DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ . iii
    PHẦN MỞ ĐẦU . 1
    CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
    LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DUNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
    NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
    1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 4
    1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 4
    1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 5
    1.2. Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của
    NHTM . 7
    1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng 7
    1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng . 8
    1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng 9
    1.2.4. Khái niệm rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM . 10
    1.2.5. Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM . 12
    1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 13
    1.2.7. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng 17
    1.2.8. Quản lý rủi ro tín dụng 18
    CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
    2.1. Cơ sở phương pháp luận 37
    2.2. Phương pháp thu thập số liệu . 38
    2.3. Các phương pháp nghiên cứu . 38
    2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu . 38
    2.3.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp . 39
    2.3.3. Phương pháp thống kê mô tả . 40
    CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
    HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH
    NGHỆ AN . 41
    3.1. Tổng quan về chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
    Nam- chi nhánh Nghệ An . 41
    3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển BIDV Nghệ An . 41
    3.1.2. Cơ cấu tổ chức của BIDV Nghệ An 42
    3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
    Việt Nam- chi nhánh Nghệ An giai đoạn 2012-2014 . 44
    3.2.1. Hoạt động huy động vốn: 44
    3.2.2. Hoạt động tín dụng: . 46
    3.3. Thực trạng Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
    triển Việt Nam- Chi nhánh Nghệ An 48
    3.3.1. Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại BIDV Nghệ An 48
    3.3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
    Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Nghệ An 52
    3.4. Đánh giá hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư
    và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Nghệ An 55
    3.4.1. Kết quả đạt được: 55
    3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân . 56
    CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ RỦI RO
    CỦA NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI
    NHÁNH NGHỆ AN. 64
    4.1. Định hướng phát triển của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
    Nam - Chi nhánh Nghệ An trong thời gian tới . 64
    4.1.1. Định hướng phát triển chung của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
    triển Việt Nam - Chi nhánh Nghệ An . 64
    4.1.2. Định hướng tăng cường quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP
    Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An . 65
    4.2. Giải pháp nhằm quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả tại Ngân hàng
    TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Nghệ An 66
    4.2.1 Hoàn thiện chính sách, cơ chế về quản lý rủi ro tín dụng 67
    4.2.2 Hoàn thiện hệ thống cảnh báo rủi ro 70
    4.2.3. Tăng cường giám sát chấp hành quy trình cho vay. . 73
    4.2.4. Tăng cường quản lý sau cho vay 78
    4.3. Một số kiến nghị . 81
    4.3.1. Đối với Chính phủ . 81
    4.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước . 82
    KẾT LUẬN . 84
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
    i
    DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
    STT Từ viết tắt Nguyên nghĩa
    1 ALCO Uỷ ban quản lý tài sản nợ có
    2 CBTD Cán bộ tín dụng
    3 CIC Trung tâm thông tin tín dụng
    4 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
    5 DPRR Dự phòng rủi ro
    6 HĐQT Hội đồng quản trị
    7 BIDV
    Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
    Việt Nam
    8 NHNN Ngân hàng Nhà nước
    9 NHTM Ngân hàng Thương mại
    10 QĐ Quyết định
    11 QPQ Quyền phán quyết
    12 RRTD Rủi ro tín dụng
    13 TCTD Tổ chức tín dụng
    14 XLRR Xử lý rủi ro
    ii
    DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
    Bảng 3.1: Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư
    và Phát triển Nghệ An qua các năm 2012-2014 . 45
    Bảng 3.2: Cơ cấu dư nợ tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt NamChi nhánh Nghệ An qua các năm 2012-2014 . 47
    Bảng 3.4: Tỷ lệ nợ quá hạn . 53
    Bảng 3.5: Cơ cấu nhóm nợ 54
    Bảng 3.6: Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng . 55
    iii
    DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
    Hình 2.1. Quy trình nghiên cứu .
    Hình 3.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức . 43
    Hình 3.2 Quy trình cấp tín dụng . 51
    1
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1.Tính cấp thiết của đề tài
    Hoạt động tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với các ngân
    hàng thương mại, thường đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng.
    Thực tế cho thấy đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam thì hoạt động
    tín dụng mang lại 40% - 50% trên tổng thu nhập. Ngoài ra tín dụng ngân hàng
    còn là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân
    đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước.
    Tuy nhiên một vấn đề đặt ra đó là hoạt động tín dụng luôn luôn đi kèm
    theo nó là rất nhiều rủi ro tiềm tàng. Rủi to tín dụng cao quá mức sẽ ảnh
    hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng
    không chỉ tác động đến bản thân ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến nền
    kinh tế.
    Đứng trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập quốc tế,
    vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong
    nước với các ngân hàng thương mại nước ngoài, mà cụ thể là nâng cao chất
    lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết. Chính vì thế mà vấn đề
    quản lý hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng có ý nghĩa và vai trò vô cùng
    to lớn.
    Một ngân hàng kinh doanh liên tục bị thua lỗ hoặc thường xuyên không
    đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn tới một cuộc rút tiền quy mô lớn và con
    đường phá sản là tất yếu. Như một hệ quả, ngân hàng bị thua lỗ và phá sản sẽ
    ảnh hưởng tới hàng triệu người gửi tiền, hàng triệu doanh nghiệp không được
    đáp ứng vốn kịp thời, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giái cả tăng cao, sức
    mua giảm sút, thất nghiệp gia tăng, gây rối loạn trật tự xã hội và hơn nữa là sự
    sụp đổ của hàng trăm ngân hàng trong khu vực và trên thế giới
    2
    Cũng như các NHTM Việt Nam, lợi nhuận của Ngân hàng TMCP Đầu tư
    và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An chủ yếu từ hoạt động tín dụng
    (chiếm khoảng khoảng 41% tổng thu nhập của ngân hàng). Do đó, quản lý rủi ro
    tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của quản lý rủi ro
    của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro của Ngân hàng TMCP Đầu tư
    và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu.
    Câu hỏi nghiên cứu: Giải pháp nào để hoàn thiện quản lý rủi ro tín
    dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ
    An?
    2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    2.1. Mục đích nghiên cứu
    Nghiên cứu, phân tích về lý thuyết và thực tiễn các rủi ro có thể gặp
    phải trong quá trình hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nhằm nhận
    thức một cách đúng đắn vấn đề rủi ro để từ đó đề xuất ra các giải pháp nhằm
    hoàn thiện việc quản lý rủi ro của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
    Nam - chi nhánh Nghệ An và cho hệ thống Ngân hàng cũng như các cấp vĩ
    mô nói chung.
    2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    - Tổng quan các nghiên cứu mật thiết tới đề tài qua đó tìm ra hướng
    nghiên cứu cho luận văn.
    - Hệ thống lại cơ sở lý luận của Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng
    thương mại.
    - Đánh giá được thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng
    TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    - Đề xuất các giải pháp nhăm hoàn thiện quản lý rủi ro của Ngân hàng
    TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
    3
    3.1. Đối tượng nghiên cứu
    Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
    triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An
    3.2. Phạm vi nghiên cứu
    - Phạm vi về nội dung: Tác giả nghiên cứu hoạt động Quản lý rủi ro tín
    dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ
    An
    - Phạm vi về thời gian: Tác giả nghiên cứu số liệu từ năm 2011 – 2014
    tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    - Phạm vi về mặt không gian: Nghiên cứu hoạt động tại Ngân hàng
    TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
    Qua đề tài tác giả đã đánh giá được thực trạng quản lý rủi ro tín dụng
    của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An
    qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng của
    Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    5. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn có
    kết cấu làm 4 chương:
    Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về quản lý
    rủi ro tín dung trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
    Chương 2: Thiết kế và phương pháp nghiên cứu.
    Chương 3: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP
    Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro của Ngân hàng
    TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Nghệ An.
    4
    CHƯƠNG 1
    TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
    QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DUNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
    HÀNG THƯƠNG MẠI
    1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
    1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
    Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về rủi ro tín dụng cho
    thấy tầm quan trọng của rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng. Bài
    viết “Credit Risk and Commercial banks’ Performance in Nigeria: A Panel
    Model Approach”, Australian Journal of Business and Management, của các
    tác giả T. Funso, R. Kolade &M. Ojo. Bài viết đánh giá tác động của rủi ro tín
    dụng về việc thực hiện của các ngân hàng Nigeria trong khoảng thời gian
    2000 – 2010.
    Bằng phương pháp phân tích hồi quy dữ liệu bàn về tác động của rủi ro
    tín dụng ngân hàng. Ước tính yếu tố quyết định chức năng lợi nhuận, kết quả
    cho thấy rằng tác động của rủi ro tín dụng về hiệu suất ngân hàng đo bằng Lợi
    nhuận/Tài sản của các ngân hàng nó là bất biến. Từ đó, tác giả đưa ra khuyến
    nghị cho các ngân hàng Nigeria cần phải tăng cường năng lực của họ trong
    phân tích tín dụng và cho vay. Các cơ quan chính quyền quản lý nên chú ý
    hơn đến việc tuân thủ của các ngân hàng và tuân thủ luật của tổ chức tài chính
    (1999) hướng dẫn để đảm bảo an toàn.
    Kithinjin (2010) đánh giá hiệu quả của quản lý rủi ro tín dụng đối với
    lợi nhuận của các NHTM ở Kenya. Nghiên cứu cho thấy phần lớn lợi nhuận
    của các NHTM không bị ảnh hưởng bởi số lượng tín dụng và các khoản cho
    vay.
    Hussain AliBekhet & Shorouq Fathi Kamel Eletter (2014) “Credit risk
    5
    assessment model for Jordanian commercial banks: Neural scoring approach”.
    Bài viết này đề xuất hai mô hình chấm điểm tín dụng sử dụng các kỹ thuật
    khai thác dữ liệu để hỗ trợ các quyết định cho vay đối với các NHTM Jordan.
    Đánh giá đơn xin vay vốn sẽ nâng cao hiệu quả quyết định tín dụng và kiểm
    soát cho vay, đồng thời tiết kiệm thời gian phân tích và chi phí.
    Quản lý rủi ro tín dụng cũng đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh
    của ngân hàng nông thôn. Bài nghiên cứu “Credit Risk Management and
    Profitability of Rural Bank in the Brong Ahafo Region of Ghana” của tác giả
    Harrison Owusu Afriyie (2013), Faculty of Economic and Business
    Administration, Catholic University College of Ghana đã trả lời được câu hỏi
    trên, việc quản lý rủi ro tín dụng cũng đóng một vai trò quan trọng trong kinh
    doanh của ngân hàng nông thôn mà đồng thời bài nghiên cứu đã kiểm tra việc
    quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng nông thôn được lựa chọn ở Ghana.
    1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
    Xung quanh chủ đề rủi ro tín dụng đã có khá nhiều công trình đề cập
    đến, trong đó đáng chú ý có một số công trình sau đây:
    Đề tài Hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTM cổ phần các doanh nghiệp
    ngoài quốc doanh Việt Nam – VPBANK, luận án thạc sỹ kinh tế, Nguyễn
    Ngọc Tâm, Đại học Kinh tế quốc dân (2009), thông qua sử dụng các phương
    pháp truyền thống như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích, thu thập tài liệu
    từ sách, báo, tạp chí, luận văn còn tiếp cận nghiên cứu theo hướng điều tra
    thị trường, tác giả đã phân tích đánh giá, làm rõ thực trạng rủi ro trong hoạt
    động cho vay tại Ngân hàng Ngoài Quốc doanh Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác
    giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
    Ngoài Quốc doanh Việt Nam.
    Đề tài Quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHTM cổ phần ngoại
    thương Kontum, luận án thạc sỹ kinh tế, Dương Hoàng Tiến, Đại học Đà
    6
    Nẵng (2012), thông qua các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
    sử, phương pháp phân tích, thống kê tác giả đã có cái nhìn tổng quan về mặt
    cơ sở lý luận và việc áp dụng thực tiễn vào chi nhánh đồng thời đưa ra các
    giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tại Chi nhánh theo đúng các nội
    dung quản trị rủi ro tín dụng: Nhận dạng; đo lường; kiểm soát rủi ro tín dụng
    Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTM cổ phần Đại Dương – Chi
    nhánh Thăng Long, luận án thạc sỹ kinh tế, Đinh Thị Minh Thúy, Học viện
    Ngân hàng (2013), tác giả đã dựa vào nguồn số liệu quá khứ qua các năm về
    tình hình nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu, căn cứ vào các nghị quyết, các chiến lược
    kinh doanh, kế hoạch của ngân hàng, vận dụng các phương pháp phân tích
    định lượng, thống kê phân tích, tổng hợp so sánh số liệu qua các năm để làm
    sáng tỏ thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
    “Kiểm định rủi ro tín dụng cho các NHTM niêm yết tại Việt
    Nam”,Nguyễn Hoàng Bích Trâm, số 14, Tạp chí phát triển và hội nhập
    (2014). Tác giả đã thực hiện Stress Test để xem xét tác động vĩ mô lên rủi ro
    tín dụng của các NHTM Việt Nam phân tích viễn cảnh. Kết quả cho thấy mối
    tương quan âm giữa tỷ lệ nợ xấu và tăng trưởng GDP với độ trễ hai quý. Bài
    nghiên cứu còn sử dụng Credit Var để tính toán khả năng vỡ nợ của khu vực
    NHTM và nhận thấy rằng các NHTM không thể hấp thụ được khoản tổn thất
    tín dụng dưới các kịch bản vĩ mô bất lợi. Điều này có thể đe dọa sự ổn định
    của hệ thống tài chính. Những ước lượng này cũng rất hữu ích cho ngân hàng
    trong việc xác định rủi ro tín dụng và tính toán tỷ số an toàn tối thiểu cần thiết
    khi trường hợp xấu có thể xảy ra.
    Để hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTM, cần phân tích và tìm hiểu những
    nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng, liệu nguyên nhân chủ yếu có phải từ
    phía khách hàng, hay từ phía chính ngân hàng, hay từ môi trường kinh doanh.
    Những vấn đề này được PGS.TS Trương Đông Lộc và ThS. Nguyễn Thị
    7
    Tuyết đưa ra trong bài viết “ Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của
    NHTM cổ phần Ngoại Thương Chi nhánh Thành Phố Cần Thơ”, số 5, Tạp chí
    ngân hàng (2011). Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới RRTD của
    ngân hàng TMCP Ngoại Thương Chi nhánh Thành Phố Cần Thơ. Áp dụng
    mô hình probit, kết quả phân tích cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến RRTD
    của ngân hàng bao gồm: khả năng tài chính của khách hàng đi vay, việc sử
    dụng vốn vay, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, số lần kiểm tra và giám sát
    khoản vay của cán bộ tín dụng và việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của
    khách hàng vay. Kết quả của nghiên cứu này đã cung cấp những bằng chứng
    thực tế rất có giá trị nhằm giúp các NHTM nói chung và Vietcombank Cần
    Thơ nói riêng hiểu rõ hơn các nguyên nhân dẫn đến RRTD. Trên cơ sở những
    nguyên nhân này, ngân hàng sẽ chủ động đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm
    hạn chế RRTD cho ngân hàng.
    Như vậy, qua các phân tích ở trên có thể nói, hiện nay việc xem xét
    một cách tổng thể và xác định những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng và biện
    pháp hạn chế rủi ro tín dụng là hết sức quan trọng và có giá trị. Bởi vì, nó sẽ
    hỗ trợ cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính chính sách, các nhà
    quản trị ngân hàng và các nhà đầu tư trong việc ra quyết định.
    1.2. Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
    doanh của NHTM
    1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
    Tín dụng theo nghĩa phổ biến là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và
    đi vay. Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản: (1) quan hệ vay mượn
    về vốn giữa hai đối tác, (2) quan hệ hoàn trả.
    Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với các cá
    nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác
    theo nguyên tắc có hoàn trả.
    8
    Theo Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cấp tín dụng là việc
    thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
    sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay,
    chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
    nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
    Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
    nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Để đảm bảo tính an toàn và khả năng
    sinh lời trong hoạt động tín dụng, đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ các
    nguyên tắc sau:
    - Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định
    như đã thỏa thuận;
    - Khách hàng cam kết sử dụng vốn theo đúng mục đích được thỏa
    thuận với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định
    khác của ngân hàng cấp trên;
    - Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả.
    Như vậy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các
    NHTM bởi nó mang lại thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất của ngân
    hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân
    hàng.
    1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
    - Vai trò của tín dụng đối với ngân hàng:
    Các doanh nghiệp, các tổ chức chức kinh tế đều có một mục tiêu chung
    là thông qua hoạt động để tạo ra lợi nhuận ròng và mục tiêu của các ngân
    hàng cũng không nằm ngoài mục đích đó. Ngân hàng thu được lợi nhuận
    thông các hoạt động dịch vụ, tư vấn và đặc biệt hoạt động tín dụng. Ngân
    hàng hoạt động trên nguyên tắc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
    cư, trong tổ chức và thông qua hoạt động tín dụng để cung cấp vốn cho các
    9
    nhu cầu khác nhau trong xã hội. Sự chênh lệch giữa tiền lãi thu được từ hoạt
    động cho vay với tiền lãi phải trả từ hoạt động huy động chính là phần lợi
    nhuận từ hoạt động tín dụng. Mặc dù đây chưa phải toàn bộ lợi nhuận thu
    được từ hoạt động ngân hàng nhưng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm
    một tỷ lệ không nhỏ trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
    Như vậy, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các
    NHTM bởi nó mang lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên
    đây cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho các NHTM.
    - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế:
    Nhìn chung tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong
    nền kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn
    lực đầu tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả.
    Tín dụng của một hệ thống ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ
    vốn của nền kinh tế quốc gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều
    kiện để kêu gọi các dòng vốn từ bên ngoài đầu tư vào để phát triển kinh tế đất
    nước. Tuy nhiên do các ngân hàng cho khách hàng vay đầu tư sản xuất kinh
    doanh thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng, sản xuất công nghiệp, thương
    nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ lữ hành . nên sau khi cho vay thì quyền sở hữu vốn
    tạm thời tách khỏi quyền sử dụng vốn, do vậy tính chủ động của Ngân hàng
    kém đi, dễ lâm vào thế bị động đối với người vay vốn và có thể gặp rủi ro mất
    một phần vốn hay toàn bộ vốn.
    1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
    Có nhiều cách phân loại tín dụng, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi
    xin đưa ra hai cách phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng là phân loại
    theo đối tượng khách hàng.
    Theo đối tượng khách hàng: Theo cách phân loại này thì tín dụng bao
    gồm tín dụng khách hàng doanh nghiệp, tín dụng tổ chức tài chính và tín dụng
    10
    khách hàng cá nhân.
    Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác
    xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu
    tư nước ngoài, Công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng
    doanh nghiệp rất đa dạng như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức
    tín dụng dự phòng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,
    Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp
    tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, Hình thức cho
    vay đối với các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thường cho vay
    NHTM nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các
    giao dịch thường diễn ra trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
    Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật
    dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của
    pháp luật.
    Theo đối tượng vay vốn: Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm những
    khách hàng có nhu cầu vốn nhà ở (mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà),
    tiêu dùng (mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, học tập), thực hiện các phương
    án sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tư và đáp ứng một số yêu cầu
    khác.
    1.2.4. Khái niệm rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
    Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể dẫn ra sau đây:
    Theo khái niệm cơ bản nhất, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng
    được cấp tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối
    với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng ; đó là kh ả năng khách hàng không
    trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi và phí cho ngân hàng.
    Theo Khoản 1, Điều 2 quyết định 493/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
    Thống đốc NHNNVN, đề cập khái niệm “Rủi ro tín dụng trong hoạt động
    11
    ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
    của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
    thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”
    Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về RRTD, song các quan
    niệm về RRTD đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: RRTD là khả năng (xác
    suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách
    hàng được cấp tín dụng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với ngân
    hàng.
    RRTD có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu
    nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng
    sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng.
    Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái
    niệm về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta hiểu rủi ro tín dụng theo
    nghĩa xác suất là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết, khả
    năng này có thể xảy ra, có thể không xảy ra; khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách
    hàng thực sự không thực hiện được cam kết, số tiền mà ngân hàng không thu
    hồi được thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu. Trong nội dung
    về quản trị rủi ro, Basel II cũng đề cập đến khái niệm tổn thất dự kiến
    (expected loss-EL) và tổn thất ngoài dự kiến (unexpected loss- UL). Theo đó,
    tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó
    thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự
    phòng. Tổn thất ngoài dự kiến mới thực sự là rủi ro tín dụng, cần tính toán cụ
    thể để dự phòng về vốn tự có.
    Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn
    thất với khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến
    hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ
    động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ
    12
    khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng
    rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập
    dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn
    đến tình trạng:
    Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ
    không được trích lập;
    Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro tín dụng, mức độ
    đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú
    sốc thì ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm
    cho ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc
    dù trên thực tế có những ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhưng danh mục
    tín dụng lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng
    hay ngành rủi ro phá sản cao. Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân
    loại nợ, chủ động trích lập qũi dự phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình
    quản trị RRTD.
    1.2.5. Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
    Rủi ro tín dụng được nhìn nhận dưới 2 góc độ: Rủi ro khách quan và
    rủi ro chủ quan.
    1.2.5.1. Rủi ro khách quan
    Khi khách hàng nhận đồng vốn vay từ ngân hàng, họ sẽ dùng vốn vào
    các mục đích như: đầu tư sản xuất kinh doanh, đầu tư mua máy móc thiết bị,
    đầu tư mua tài sản là nhà đất, Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sử
    dụng vốn tất yếu sẽ phát sinh các rủi ro không mong muốn mà đôi khi khách
    hàng không lường trước được như:
    - Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
    - Rủi ro các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.
    - Rủi ro thị trường bị bóp méo vì các hàng hóa nhập lậu.
    13
    - Rủi ro giá cả thị trường trong nước và thế giới biến động tăng/hoặc
    giảm.
    1.2.5.2. Rủi ro chủ quan
    Rủi ro chủ quan đến từ cả hai phía là Ngân hàng và Doanh nghiệp.
    Đối với ngân hàng: Rủi ro chủ quan chủ yếu do năng lực thẩm định còn
    hạn chế, số liệu thu thập thiếu sự chuẩn xác, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ
    tín dụng bị bóp méo
    Đối với doanh nghiệp: doanh nghiệp đánh giá nhu cầu vốn sai, doanh
    nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, doanh nghiệp kém trong khâu quản lý
    1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
    Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD, chúng ta có thể phân chia ở
    các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
    1.2.6.1 Nguyên nhân bất khả kháng
    Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng được cấp
    tín dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân
    hàng, như: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô
    (chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan ) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách
    hàng và ngân hàng.
    Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến
    khách hàng cũng như ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho
    khách hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục
    những khó khăn. Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có
    khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các
    khách hàng bị tổn thất bởi những nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả
    năng trả nợ suy giảm thậm chí không còn khả năng trả nợ.
    1.2.6.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
    Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,
    14
    yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ . là
    nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với
    kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng
    tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật,
    mua chuộc .Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, mở rộng
    đầu tư quá mức, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể
    xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh
    doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng
    vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, sử
    dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
    1.2.6.3 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
    Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách
    hàng), những nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng được Uỷ ban Basel
    (2000) đã thống kê cho thấy, nguồn gô ́ c ch ủ yếu gây ra RRTD là mức độ tập
    trung rủi ro và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh.
    Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn
    đề RRTD. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ RRTD của một nội
    dung trong danh mục tín dụng trở nên tương đối lớn so với mức vốn hoặc tài
    sản của ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ thuộc vào giá trị
    tín dụng đã cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao khi xảy ra rủi ro.
    Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhóm chính: Rủi ro tập trung tín
    dụng thông thường và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro
    chung hay tương quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thường xảy ra khi tín
    dụng được tập trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc
    ngành/lĩnh vực như kinh doanh bất động sản, dầu mỏ, khí đốt. Trong khi đó,
    rủi ro tập trung tín dụng do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên
    quan nhiều đến các yếu tố đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân
    15
    tích như giữa các thị trường mới nổi, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường, các
    rủi ro này với rủi ro thanh khoản. Điển hình cho loại rủi ro này là cuộc khủng
    hoảng tài chính ở Châu á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế
    Mỹ từ cuối năm 2007 đến nay. Trong cuộc khủng hoảng này, sự liên hệ rủi ro
    thị trường và rủi ro tín dụng, cũng như giữa rủi ro này với rủi ro thanh khoản,
    đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp.
    Rủi ro tập trung thường xảy ra do quá trình hoạch định chiến lược, nhất
    là ở các nước đang phát triển, các Ngân hàng xác định và lựa chọn một số
    ngành/lĩnh vực hay nhóm khách hàng ưu tiên và do đó lạc quan khi cấp tín
    dụng cho các đối tượng khách hàng này. Rủi ro lại thường xảy ra đối với các
    Ngân hàng lớn do giá trị vốn lớn làm cho các ngân hàng này có thể cấp tín
    dụng với giá trị rất lớn cho một khách hàng mà không vi ph ạm quy định của
    pháp luật. Bản chất tái diễn của các vấn đề về tập trung tín dụng, đặc biệt là
    liên quan đến tập trung tín dụng thông thường, đặt ra vấn đề là tại sao các
    ngân hàng lại để cho tập trung rủi ro phát sinh. Thứ nhất, khi phát triển chiến
    lược kinh doanh của mình, hầu hết các ngân hàng đều phải đối mặt với sự
    đánh đổi cố hữu giữa việc chọn chuyên môn hoá trong một số lĩnh vực chính
    với mục tiêu đạt được vị trí dẫn đầu thị trường và đa dạng hoá các luồng thu
    nhập, đặc biệt khi họ tham gia vào một số phân đoạn thị trường có mức độ
    biến động cao. Sự đánh đổi này càng trở nên trầm trọng hơn với sự cạnh tranh
    khốc liệt giữa các ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng tương tự trong các hoạt
    động ngân hàng truyền thống như cấp tín dụng cho các doanh nghiệp được
    xếp hạng ở mức có thể đầu tư. Tập trung rủi ro xuất hiện thường xuyên nhất
    vì các ngân hàng phát hiện ra các ngành đang "nóng" và tăng trưởng nhanh và
    sử dụng các giả định quá lạc quan về triển vọng của ngành, đặc biệt là sự lên
    giá của tài sản và tiềm năng thu được mức phí và/hoặc chênh lệch cao hơn
    trung bình. Các ngân hàng thường dễ bỏ qua những nguy hiểm trong các
    16
    trường hợp này khi họ tập trung vào tăng trưởng tài sản hay thị phần.
    Các vấn đề trong quy trình cấp tín dụng cũng là một nguyên nhân gây
    ra rủi ro tín dụng, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và theo
    dõi tín dụng. Rất nhiều ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá trình
    đánh giá tín dụng kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong ngân hàng ngày càng
    tăng. Do áp lực này mà nhiều ngân hàng có xu hướng dựa vào một số chỉ tiêu
    đơn giản để cấp tín dụng. Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm định và
    đánh giá các kỹ thuật tín dụng mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro, cụ thể:
    - Lạm dụng quá mức hệ thống chấm điểm tín dụng mà không có sự
    kiểm định lại sự phù hợp của mô hình. Đây cũng là một trong những nguyên
    nhân cơ bản gây ra sự sụp đổ thị trường nhà đất Mỹ thời gian qua. Các quyết
    định cho vay cá nhân hầu như phụ thuộc vào hệ thống chấm điểm - xếp hạng
    – ra hạn mức cấp tín dụng mà không sử dụng đánh giá của cán bộ tín dụng
    cũng như không có sự kiểm định lại mô hình dẫn đến sự phát triển quá mức
    của loại hình cho vay thế chấp nhà. Khi các hộ gia đình không có khả năng trả
    nợ, đồng thời thị trường nhà đất suy giảm, hàng loạt các ngân hàng tham gia
    hoạt động này sụp đổ.
    - Không theo dõi, giám sát thường xuyên khách hàng hoặc tài sản bảo
    đảm. Điều này làm cho ngân hàng không có cơ sở đưa ra các biện pháp hành
    động sớm nhằm ngăn chặn rủi ro.
    - Kỹ thuật định giá theo rủi ro kém, tập trung quá nhiều vào điều kiện
    phi giá (điều kiện tín dụng như hồ sơ, tài chính, tài sản bảo đảm ). Vấn đề
    này chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng bù đắp của Ngân hàng trong trường hợp
    có rủi ro xảy ra.
    - Không thận trọng với các thỏa thuận tín dụng có đòn cân nợ cao. Do
    đó, khi khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh thì khả năng chống đỡ bằng
    vốn tự có thấp, rủi ro chuyển về phía ngân hàng.
    17
    - Không tính đến chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của
    sản phẩm hàng hoá, nhất là đối với các ngân hàng có mức độ tập trung cao
    vào lĩnh vực bất động sản. Đây là sự yếu kém trong quản lý danh mục tín
    dụng.
    - Không dự kiến phương án trong trường hợp xấu nhất, làm cho ngân
    hàng không có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong nhiều trường hợp, việc có một cơ
    chế hành động rõ ràng, được phổ biến và tập huấn thường xuyên có thể giúp
    ngân hàng phản ứng nhanh chóng, kịp thời và do đó có thể vượt qua được
    những cú sốc bất lợi.
    1.2.7. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
    Nhận diện rủi ro, qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngăn ngừa và
    xử lý các khoản tín dụng có rủi ro là khâu quan trọng quyết định đến hiệu quả
    kinh doanh của ngân hàng. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại,
    ngân hàng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông
    qua các dấu hiệu cảnh báo sau:
    * Nhóm các dấu hiệu từ phía khách hàng
    - Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng: (1)Trì hoãn
    hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo
    định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt
    động sản xuất kinh doanh của khách hàng; (2) Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ
    hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục; (3) Chậm
    thanh toán các khoản lãi khi đến hạn; (4) Tài sản đảm bảo không đủ tiêu
    chuẩn, giá trị của tài sản đảm bảo giảm sút so với định giá khi cho vay. Có
    dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất
    không còn tồn tại; (5) Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế
    so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng; (6) Những thay đổi
    bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách
    18
    hàng; (7) Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia
    tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách ; (8)Thay đổi thường
    xuyên tổ chức của ban điều hành
    * Nhóm các dấu hiệu từ chính sách tín dụng của ngân hàng: (1) Sự
    đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ
    như đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế; đánh
    giá khách hàng chỉ qua thông tin do khách hàng cung cấp mà bỏ qua các kênh
    thông tin bên ngoài khác ; (2) Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc
    chắn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi
    lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp; (3)Tốc
    độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát
    cũng như nguồn vốn của ngân hàng; (4) Chính sách tín dụng quá cứng nhắc
    hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng; (5) Cung cấp tín dụng với
    khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu
    của ngân hàng; (6) Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân
    thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng;
    1.2.8. Quản lý rủi ro tín dụng
    1.2.8.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
    Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động
    tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa
    ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả
    gốc và lãi của khoản vay, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
    1.2.8.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
    Rủi ro tín dụng là căn nguyên chủ yếu tạo ra các vấn đề của ngân
    hàng: Sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989-1990 do chất lượng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những
    năm 1999 - 2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số ngân hàng
    19
    TMCP vào tình trạng giám sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một
    khối lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại nhà
    nước từ năm 2000 về trước đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khó đòi.
    Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho
    nhiều ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc
    phải sáp nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của
    các ngân hàng tăng cao. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng luôn luôn là
    vấn đề sống còn của NHTM.
    - Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng: Tính cấp
    thiết của quản trị RRTD không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và nguy cơ
    rất lớn của RRTD mà còn do xu hướng kinh doanh của ngân hàng ngày nay
    càng trở nên rủi ro hơn.Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro trong hoạt
    động kinh doanh ngân hàng ngày càng gia tăng:
    Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động
    ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu
    hướng toàn cầu hoá, tự do hoá kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ
    biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng.
    Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày
    càng giảm xuống. Tác động này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu
    hướng mở rộng qui mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó
    mở rộng qui mô tín dụng đồng nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia
    tăng. Bên cạnh đó, qui luật đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá
    sản của các khách hàng của ngân hàng kéo theo sự thiệt hại cho ngân hàng.
    Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng
    đa năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội
    nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới.
    Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ,
    20
    vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa
    trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá thể luôn
    chứa dựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và
    đa dạng hoá sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp
    thiết hơn, mang ý nghĩa sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp
    của sản phẩm tín dụng cũng như RRTD càng đòi hỏi quản trị RRTD phải
    được chú trọng nâng cấp tương xứng.
    Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong
    quá trình chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ
    thống pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt
    động ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực
    hiện tốt công tác quản trị RRTD là một công việc tối quan trọng.
    Quản lý rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị
    của NHTM. “Hãy nói cho tôi biết bạn quản lý rủi ro ra sao, tôi sẽ nói Ngân
    hàng bạn thế nào?” - Tiến sĩ S. L. Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESDEE
    Inc - nơi cung cấp các giải pháp học tập trực tuyến (e-learning) về tài chính có
    trụ sở tại California, Hoa Kỳ - nói như vậy để mở đầu câu chuyện về quản lý
    rủi ro trong ngân hàng. Dù nền kinh tế thế giới đang hứng chịu hậu quả của sự
    “sơ suất” trong công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng, song điều ông
    Srinivasulu muốn nói là: Hãy quay về những gì đơn giản nhất. Từ lâu, công
    tác quản trị rủi ro được xem như là một chức năng nhằm thoả mãn yêu cầu
    tuân thủ pháp chế và kiểm soát nội bộ. Dưới góc nhìn này, rủi ro được xem
    như là “điều không mong muốn nhưng phải chấp nhận” trong kinh doanh, và
    hoạt động quản lý rủi ro được coi là một trung tâm chi phí. Ông Srinivasulu
    cho rằng các ngân hàng nên chuyển hướng tiếp cận ngược lại: Quản trị rủi ro
    tốt chính là một nguồn lợi thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, cũng
    góp phần tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.
    21
    1.2.8.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng
    Quá trình quản lý rủi ro bao gồm 4 nội dung: nhận biết; đo lường;
    quản lý và kiểm soát, xử lý tổn thất. Mặc dù có sự phân đoạn trong qui trình
    quản lý rủi ro tín dụng song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu
    được phân ra trong qui trình phải luôn có sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo
    thành một chu trình liên tục có vậy mới bảo đảm kiểm soát được rủi ro theo
    mục tiêu đã định. RRTD một khi đã xác định thì cần phải được phân tích, đo
    lường và đưa ra các biện pháp quản lý theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý
    theo dõi, hệ thống quản lý RRTD phải có khả năng xác định tìm ra các nguy
    cơ rủi ro mới và công việc của quản lý rủi ro lại được lặp lại.
    a. Nhận biết rủi ro tín dụng
    Nhận biết rủi ro tín dụng là việc phát hiện, xác định được các nguy cơ
    rủi ro tồn tại trong hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trường
    và xu hướng toàn cầu hoá làm cho số lượng rủi ro ngày càng gia tăng và khả
    năng xảy ra rủi ro sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản lý rủi ro
    có hiệu quả phải là hệ thống có khả năng nhận biết hầu hết các rủi ro hiện hữu
    trong tín dụng. Ngân hàng nắm được tình hình rủi ro của danh mục tín dụng
    và trả lời được các câu hỏi sau: (1) lý do RRTD là do đánh giá tín d ụng chưa
    tốt hay do thoái trào kinh doanh hay do gian l ận hay chất lượng tài sản thế
    chấp kém?; (2) Ngân hàng có thể thấy RRTD tăng dần trong thời điểm này do
    cho vay tập trung không đúng thị trường? (3) Ngân hàng có thể đạt được mục
    tiêu dài hạn về RRTD có thể chấp nhận?
    Để đánh giá RRTD tiềm tàng của mỗi khách hàng ngay từ khâu phân
    tích hồ sơ xin vay, ngân hàng thường tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía
    cạnh (6 “C”, chữ cái đầu của tiếng Anh) của hồ sơ xin vay: Tính cách, năng
    lực, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện và sự kiểm soát. Tất cả phải
    thoả mãn các yêu cầu đối với một khoản cho vay tốt theo quan điểm của
    22
    người cho vay.
    Tính cách (Character). Cán bộ tín dụng phải có được những bằng
    chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế
    hoạch trả nợ nghiêm túc. Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn
    nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng nên tính
    cách của khách hàng trong cách nhìn nhận của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ
    tín dụng cảm thấy khách hàng đó không trung thực trong cam kết sử dụng vốn
    vay hay kế hoạch trả nợ thì khoản cho vay sẽ không được thực hiện bởi vì nếu
    cho vay, nó sẽ rất có thể trở thành một khoản nợ khó đòi đối với ngân hàng.
    Năng lực (Capacity). Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng
    có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn.Ví dụ, người chưa
    đủ 18 tuổi là người chưa thành niên không có đủ tư cách pháp lý để lập một
    hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đại
    diện cho công ty để tiến hành thoả thuận và ký kết hợp đồng tín dụng phải
    được phê chuâ ̉ n bơ ̉i câ ́ p co
    ́
    thâ ̉ m quyê ̀ n theo quy đinh ̣ tai ̣ điê ̀ u lê ̣ công ty , phù
    hợp với quy định của pháp luật.
    Dòng tiền mặt (Cash folow). Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối
    với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: Liệu người vay có
    khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho
    ngân hàng món vay không? Nhìn chung khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn
    có thể được sử dụng để hoàn trả khoản vay: (a) Dòng tiền mặt từ doanh thu
    bán hàng hoặc thu nhập, (b) dòng tiền từ việc bán tài sản, (c) các nguồn vốn
    huy động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn nào
    trong ba nguồn nêu trên đều có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt
    trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng rất quan
    tâm tới dòng tiền tạo ra từ doanh thu bán hàng và xem đây là một nguồn
    chính để thanh toán nợ bởi vì việc bán các tài sản có thể làm suy yếu năng lực
    23
    hoạt động của người vay và khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng một chủ
    nợ không được đảm bảo. Hơn nữa, sự thu hẹp quy mô dòng tiền mặt thường
    ẩn chứa một sự suy giảm trong kinh doanh và do đó ngân hàng phải đối mặt
    với rủi ro về một khoản nợ có vấn đề.
    Tài sản thế chấp (collaterral). Trong việc đánh giá tài sản thế chấp dành
    cho khoản vay, cán bộ tín phải đặt câu hỏi: Người vay có sở hữu một tài sản
    nào với giá trị ròng tương xứng với khoản vay không? Cán bộ tín dụng phải
    rất nhậy cảm với những đặc điểm như thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và
    mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ
    có một vị trí quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng quá lỗi thời về công
    nghệ, giá trị thế chấp của chúng sẽ bị giảm bởi lý do: ngân hàng có thể gặp
    nhiều khó khăn trong việc tìm người mua lại những tài sản này nếu khoản cho
    vay không được hoàn trả.
    Các điều kiện môi trường (Conditions). Cán bộ tín dụng và các chuyên
    gia phân tích tín dụng phải nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây
    của khách hàng cũng như của ngành mà khách hàng hoạt động, thấy được
    mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay.
    Một khoản cho vay dường như rất tốt trên giấy tờ nhưng có thể giá trị của nó
    bị sụt giảm do doanh thu hay thu nhập của khách hàng giảm trong thời kỳ suy
    thoái kinh tế hoặc do lãi suất tăng cao trước sức ép của lạm phát. Để có thể
    phân tích nội dung này, NHTM rất cần lưu trữ các dữ liệu thông tin từ các
    báo, tạp chí, báo cáo nghiên cứu – về các ngành mà ngân hàng phục vụ chủ
    yếu.
    Sự kiểm soát (Control). Nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin
    cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi như:
    Liệu những thay đổi khi chính sách đưa ra quy định mới có ảnh hưởng bất lợi
    đến người vay không và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất
    24
    lượng tín dụng do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra? .
    b. Đo lường rủi ro tín dụng
    Đo lường rủi ro tín dụng là bước tiếp theo sau khi đã phát hiện được
    nguy cơ rủi ro. Trên thực tế các bước này khá gần gũi với nhau và thường
    được gộp chung lại trong quá trình thực hiện tác nghiệp. Mục đích của các
    bước này là giúp cho toàn bộ bộ máy quản trị rủi ro hiểu chính xác và nhất
    quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân và quan trọng nhất
    là lượng hoá mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng để định giá rủi ro
    có thể chấp nhận được; trích lập dự phòng rủi ro.
    Để duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù
    hợp, theo thông lệ tốt nhất do ủy ban Basel (2000) đề xuất, ngân hàng phải
    tuân thủ các nguyên tắc sau:
    Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần có hệ thống quản lý liên tục các danh
    mục đầu tư có rủi ro tín dụng.
    Nguyên tắc 2: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng
    khoản tín dụng, bao gồm xác định mức độ đủ dự phòng và dự trữ.
    Nguyên tắc 3: Khuyến khích các Ngân hàng phát triển và sử dụng hệ
    thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp
    hạng
    cần thống nhất với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của các hoạt động
    của ngân hàng.
    Nguyên tắc 4: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật
    phân tích để cho phép lãnh đạo đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt
    động nội bảng và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy
    đủ thông tin về cơ cấu của danh mục đầu tư tín dụng, bao gồm xác định sự tập
    trung rủi ro.
    Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất
    25
    lượng của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng.
    Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần tính đến những thay đổi tiềm năng trong
    tương lai về các điều kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng và danh
    mục đầu tư và phải đánh giá các tài sản có tiềm năng rủi ro tín dụng trong
    điều kiện căng thẳng.
    c. Quản lý, kiểm soát rủi ro tín dụng
    Đây là những khâu thể hiện rõ nhất tính chiến lược, cũng như tư tưởng
    của ngân hàng về RRTD. Trước hết, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống
    các công cụ hạn chế rủi ro như chính sách thiết lập giới hạn tín dụng, mức uỷ
    quyền, các tiêu chuẩn cấp tín dụng, xếp hạng tín dụng .
    Chính sách thiết lập giới hạn tín dụng
    Chính sách này được xây dựng đề cập vào ba giới hạn cơ bản đó là:
    Giới hạn tín dụng một khách hàng; Giới hạn tín dụng nhóm khách hàng có
    liên quan; Giới hạn tín dụng theo ngành, lĩnh vực hay khu vực địa lý .
    Giới hạn tín dụng một khách hàng: Luật pháp các nước đều đưa ra qui
    định rõ về giới hạn này nhằm ngăn chặn các NHTM tập trung quá lớn vào
    một khách hàng . Giới hạn này được thiết lập trên cơ sở vốn của ngân hàng ,
    thông thường mức tín dụng cấp đối với một khách hàng không quá 10 –25%
    vốn tư ̣ co
    ́
    của NHTM. Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
    NHTM thường thiết lập mức thấp hơn so qui định của pháp luật. Ở Việt Nam,
    theo quy định của NHNN, giới hạn cho vay, bảo lãnh tối đa đối với một
    khách hàng không vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng.
    Quá trình thiết lập giới hạn này ngân hàng phải tính toán tổng hợp tất
    cả mức dư nợ dưới các hình thức cấp tín dụng chứa đựng rủi ro như dư nợ cho
    vay, bảo lãnh chấp nhận thanh toán, L/C, cho thuê tài chính .
    Giới hạn tín dụng nhóm khách hàng có liên quan: Cho đến thời điểm
    này, khái niệm và cách xác định, cách quản lý nhóm khách hàng có liên quan
    26
    vẫn còn đang được các Ngân hàng tranh cãi, chưa đi đến thống nhất. Nhưng
    hiện tại, giới hạn tín dụng đối với một nhóm khách hàng đang tỏ ra đặc biệt
    quan trọng trong việc cấp tín dụng của ngân hàng. Loại khách hàng này càng
    trở nên phổ biến đối với một số ngân hàng có xu hướng thịnh hành phương
    pháp cho vay dựa trên uy tín hơn là căn cứ các thủ tục và điều kiện cho vay
    mang tính thương mại và truyền thống. Một ngân hàng có chính sách quản lý
    RRTD tốt là ngân hàng thường xây dựng các giới hạn cho nhóm khách hàng
    có liên quan trên cơ sở hệ thống quản lý khách hàng của ngân hàng mình.
    Theo thông lệ chung thì giới hạn cho vay vào nhóm khách hàng có liên quan
    không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng và 60% nếu tính cả số dư bảo
    lãnh; hoặc ở mức khống chế chặt đối với nhóm khách hàng có liên quan đều
    do hội đồng quản trị xem xét, quyết định.
    Giới hạn tín dụng theo ngành hoặc lĩnh vực: Giới hạn này khống chế
    tín dụng vào một ngành kinh doanh hay lĩnh vực, thậm chí theo khu vực địa
    lý (vùng, quốc gia). Giới hạn nhằm kiểm soát tổn thất tín dụng do hàng loạt
    khách hàng gặp khó khăn với cùng một lý do, ví dụ lĩnh vực kinh doanh bất
    động sản với rủi ro lớn khi thị trường đóng băng, có thể dẫn tới loạt khách
    hàng vay vốn kinh doanh trong lĩnh vực này phá sản, không trả được nợ ngân
    hàng. Tuy nhiên, thiết lập hệ thống thông tin thống kê báo cáo chuẩn theo
    ngành, lĩnh vực, hoặc bản thân khách hàng vay vốn sử dụng kinh doanh đa
    ngành thì việc phân loại theo tiêu chí của ngân hàng cũng gặp khó khăn.
    Xây dựng và tuân thủ tiêu chuẩn cấp tín dụng
    Là việc ngân hàng đặt ra các điều kiện về năng lực khách hàng, tài
    chính, phương án/dự án , tuân thủ quy định của NHNN và quy định nội bộ
    của ngân hàng. Theo quy định hiện hành của NHNN, Ngân hàng chỉ xem xét
    và quyết định cấp tín dụng khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
    + Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
    27
    nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
    + Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
    + Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
    + Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
    + Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của
    pháp luật.
    Để đảm bảo hoạt động theo quá trình cấp tín dụng lành mạnh, theo
    thông lệ tốt nhất do ủy ban Balse (2000) đề xuất, ngân hàng phải tuân thủ các
    nguyên tắc sau:
    Nguyên tắc 1: Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí
    cấp tín dụng lành mạnh được xác định cụ thể. Những tiêu chí này cần chỉ rõ
    thị trường mục tiêu của ngân hàng và hiểu biết rõ về bên vay hoặc đối tác,
    cũng như mục đích và cơ cấu khoản tín dụng và nguồn hoàn trả.
    Nguyên tắc 2: Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể
    ở mức từng bên vay và đối tác và nhóm các đối tác có liên quan đến nhau để
    tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau theo cách có ý nghĩa và có thể
    so sánh được trong sổ sách kế toán ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh,
    nội bảng và ngoại bảng.
    Nguyên tắc 3: Các ngân hàng cần có một quá trình được xây dựng rõ
    ràng để phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài
    trợ cho các khoản tín dụng hiện tại.
    Nguyên tắc 4: Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở công
    bằng giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cấp cho các công ty và cá
    nhân có liên quan cần được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ, theo dõi cẩn thận và
    thực hiện các bước cần thiết để kiểm soát hay loại trừ rủi ro cho vay trong
    trường hợp cho vay có ngoại lệ.
    d. Xử lý tổn thất
    28
    Đây là khâu cuối cùng của quá trình quản lý rủi ro tín dụng. Theo đó,
    tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó
    thường được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự
    phòng. Tổn thất ngoài dự kiến nếu quỹ dự phòng không đủ bù đắp thì phải bù
    đắp bằng nguồn vốn tự có.
    Nguồn dự phòng RRTD
    “Dự phòng rủi ro” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
    tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện
    nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch
    toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: dự
    phòng cụ thể và dự phòng chung.
    Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể
    các khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
    Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
    tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại và trích lập dự phòng cụ
    thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng
    khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
    Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 và thông tư
    09/2014/TT-NHNN ngày 18/03/2014, tỷ lệ trích lập cụ thể đối với từng nhóm
    như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5:
    100%. Tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% tổng số dư tín dụng từ nhóm 1
    đến nhóm 4.
    Việc trích lập dự phòng bù đắp rủi ro là nhằm giúp ngân hàng chủ động
    đối phó với các tổn thất dự kiến. Phân loại nợ là cơ sở cho chính sách trích lập
    dự phòng rủi ro, bên cạnh đó các yếu tố như kinh nghiệm thu hồi nợ vay trong
    quá khứ, mức tăng trưởng tín dụng, sự thay đổi của các điều kiện kinh tế .
    cũng cần được cập nhật trong khi xây dựng chính sách trích lập dự phòng tổn
    29
    thất tín dụng.
    Theo thông lệ quốc tế có 2 cách sử dụng quĩ dự phòng bù đắp RRTD.
    Cách thứ nhất, các khoản nợ xấu duy trì trên bảng tổng kết tài sản cho
    tới khi nào không còn biện pháp hoặc không còn khả năng thu hồi nợ thì mới
    sử dụng quĩ dự phòng bù rủi ro.
    Cách thứ hai, tất cả các khoản nợ xấu đều đưa ra ngoài bảng tổng kết
    tài sản trên cơ sở sử dụng quĩ dự phòng rủi ro để hạch toán “xoá nợ nội bộ”.
    Một nguyên tắc cần được tuân thủ là việc truy đòi nợ đến cùng để bù
    đắp lại tổn thất của khoản nợ mà ngân hàng đã phải xử lý bằng quĩ dự phòng
    là nguyên tắc cao nhất của ngân hàng. Những thông tin xung quanh xử lý
    khoản nợ theo tiêu chí “xoá nợ nội bộ” phải được bảo mật.
    Đảm bảo vốn an toàn tối thiểu: Để đảm bảo an toàn cho hoạt động
    ngân hàng và dự phòng đầy đủ cho các rủi ro tín dụng, thị trường, tác nghiệp,
    hiệp ước Basel II quy định: Vốn tự có của ngân hàng tối thiểu phải đạt 8%
    tổng tài sản có rủi ro (được xác định bằng cách nhân số vốn cần thiết cho rủi
    ro thị trường và tác nghiệp với 12.5, sau đó cộng với tổng tài sản có rủi ro tín
    dụng). Trong đó, tổng tài sản có rủi ro tín dụng được tính toán theo phương
    pháp tiêu chuẩn hóa hoặc phương pháp tiêu chuẩn hóa hoặc phương pháp tiếp
    cận dựa trên xếp hạng nội bộ.
    1.2.8.4. Các chỉ tiêu đánh giá quản lý rủi ro tín dụng
    Các chỉ tiêu sau đây được sử dụng rộng rãi nhất trong việc đo lường
    RRTD của ngân hàng thương mại:
    -Tỷ lệ nợ quá hạn:
    Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
    thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng nhất
    của rủi ro tín dụng, là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khi
    người vay vi phạm nguyên tắc của tín dụng là phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và
    30
    lãi đúng hạn, gây đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người được
    cấp tín dụng.
    Tỷ lệ nợ quá hạn =
    Số dư nợ quá hạn
    x 100%
    Tổng dư nợ
    Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì càng có nhiều các khoản nợ chưa được
    thanh toán đúng thời hạn, và như vậy thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân
    hàng sẽ càng lớn. Các ngân hàng thường sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn để đánh
    giá mức độ rủi ro của tín dụng ngân hàng
    - Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay:
    Số dư nợ xấu
    Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
    Tổng dư nợ
    Nợ xấu là các khoản nợ được phân vào nhóm 3, 4 và 5; tỷ lệ nợ xấu
    trên tổng dư nợ cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Tỷ lệ
    này càng nhỏ càng tốt, tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng quản lý rủi ro của
    ngân hàng càng kém, khả năng không thu hồi được nợ càng lớn.
    - Tỷ lệ giữa các khoản xoá nợ trong năm so với tổng dư nợ cho vay:
    Dư nợ các khoản xoá nợ trong năm
    Tỷ lệ các khoản xoá nợ trong năm =
    Tổng dư nợ
    Các khoản xoá nợ là các khoản vay được ngân hàng đánh giá là không
    có khả năng thu hồi vốn và được phân vào nhóm 5 theo Theo thông tư
    02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 và thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày
    18/03/2014. Các khoản vay này được ngân hàng dùng quỹ dự phòng cụ thể để
    xử lý rủi ro và theo dõi ở ngoại bảng.
    - Tỷ lệ giữa dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng dư nợ cho
    vay kỳ báo cáo:
    31
    Tỷ lệ dự phòng RRTD =
    Dự phòng RRTD được trích lập
    x 100%
    Tổng dư nợ
    Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho
    những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa
    vụ tín dụng theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch
    toán vào chi phí hoạt động của TCTD, dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ
    thể và dự phòng chung.
    - Tỷ lệ giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với các khoản nợ xấu:
    Tỷ lệ dự phòng so với các khoản nợ xấu =
    Dự phòng RRTD
    x 100%
    Các khoản nợ xấu
    Hai chỉ tiêu sau nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn
    thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng
    năm từ thu nhập hiện tại. Hai chỉ tiêu này càng cao thì sự chủ động của ngân
    hàng khi có rủi ro tín dụng xảy ra càng cao.
    1.2.8.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng của
    NHTM
    a. Nhân tố chủ quan
     Môi trường quản lý rủi ro tín dụng
    Môi trường được hiểu là quan điểm, văn hoá, chiến lược cũng như
    nguyên tắc ứng xử về rủi ro tín dụng mà một ngân hàng xây dựng và áp dụng
    trong toàn hệ thống của mình. Các yếu tố này tạo một môi trường để mọi bộ
    phận, cán bộ ngân hàng triển khai hoạt động quản trị rủi ro tín dụng một cách
    cụ thể. Môi trường chính là kim chỉ nam đối với công tác quản trị rủi ro tín
    dụng. Một môi trường quản lý rủi ro tín dụng được coi là hợp lý khi đảm bảo
    được các nguyên tắc sau:
    Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt định kỳ (ít
    32
    nhất hàng năm) xem xét chiến lược về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi
    ro tín dụng của ngân hàng. Chiến lược cần phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro
    của ngân hàng và mức sinh lời mà ngân hàng kỳ vọng đạt được khi gánh chịu
    các rủi ro này. Chiến lược rủi ro được xây dựng bởi Hội đồng quản trị, do Ban
    điều hành thi hành, thực hiện bởi bộ phận quản lý rủi ro và am hiểu bởi tất cả
    các cán bộ trong ngân hàng.
    Nguyên tắc 2: Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện chiến lược
    rủi ro tín dụng được Hội đồng quản trị phê duyệt và phát triển các chính sách
    và thủ tục nhằm phát hiện, đo lường và theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng.
    Các chính sách và thủ tục này phải nhằm vào rủi ro tín dụng trong mọi hoạt
    động của ngân hàng và ở mức từng khoản tín dụng cũng như ở mức toàn bộ
    danh mục đầu tư.
    Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần phát hiện và quản lý RRTD trong mọi
    sản phẩm và hoạt động. Ngân hàng cần bảo đảm rằng các rủi ro của các sản
    phẩm và hoạt động mới nằm trong phạm vi các thủ tục quản lý rủi ro và kiểm
    soát đầy đủ trước khi được đưa vào sử dụng hay thực hiện, và được Hội đồng
    quản trị hay uỷ ban thích hợp chấp thuận trước.
     Chính sách tín dụng và quy trình tín dụng của ngân hàng
    - Chính sách tín dụng của ngân hàng là cơ sở quan trọng để đảm bảo
    cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, góp phần quyết định đến sự thành
    công hay thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ có
    tác dụng hạn chế rủi ro tín dụng, thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro,
    tuân thủ theo pháp luật, chấp hành tốt chính sách của nhà nước, đảm bảo khả
    năng sinh lời cho ngân hàng cũng như tạo động lực cho nền kinh tế và xã hội
    phát triển.
    Mỗi NHTM đều có những đặc điểm riêng,
     
Đang tải...