Luận Văn Quản lý nhà nước đối với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp - Thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 20/12/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chương 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP

    1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP

    1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp

    VILLIAM cho rằng: khi nói về đất nông nghiệp, chúng ta phải hiểu đó là tầng mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm của cây. Thành phần tạo ra sản phẩm của cây chính là độ phì nhiêu của đất. Nhờ độ phì nhiêu, đất đã trở thành vốn cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Theo Docuchaev: Đất nông nghiệp là một thể độc lập cũng giống như khoáng vật, động vật, thực vật, đất không ngừng thay đổi theo không gian và thời gian. Nó được hình thành do tác động của 5 yếu tố: sinh vật, khí hậu, đá mẹ, địa hình và thời gian. Giống như vật thể khác, đất nông nghiệp cũng có quá trình phát sinh phát triển và thoái hoá. Muốn sử dụng có hiệu quả thì một trong những biện pháp cần quan tâm là phải tiến hành quy hoạch.

    Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là bản luận chứng khoa học về chủ trương phát triển và tổ chức không gian lãnh thổ hợp lý trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp. Thông qua thực hiện các biện pháp: điều tra, thu thập thông tin nhằm phân bố, phân vùng nguồn đất đai này trên một địa bàn, lãnh thổ nhất định. Phù hợp với những tính chất tự nhiên, đặc tính thổ nhưỡng, địa hình, địa chất, thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính .), tạo ra những điều kiện cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau đáp ứng yêu cầu về lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường. Quá trình thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
    Thực tế cho thấy, thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là một vấn đề rất phức tạp, không những xác lập, phân bố hợp lý quỹ đất này giữa các ngành và vùng lãnh thổ, mà còn phải phân bố nhằm sử dụng có hiệu quả các loại cây trồng, vật nuôi và các loại hình khác trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác, phải xác định hướng đầu tư, biện pháp thâm canh tăng năng suất trên một đơn vị diện tích, đáp ứng các yêu cầu về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp có những đặc trưng sau:

    - Là một quá trình động, có trọng điểm cho từng thời kỳ, do đó quy hoạch phải đề ra nhiều phương án, thường xuyên cấp nhật, bổ sung tư liệu cần thiết để có giải pháp điều chỉnh kịp thời cho phu ỡhợp với thực tế.
    - Phải là kết quả của quá trình nghiên cứu, đề xuất và lựa chọn các giải pháp khác nhau cho những nhiệm vụ khác nhau
    - Quá trình thường xuyên điều chỉnh nhiều lần, vì thế phải luôn có một tổ chức có đủ năng lực đề cập nhật, thừa kế và phát triển

    1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
    Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, sản xuất nông nghiệp, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Đất đai thuộc quyền sử hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài". Thực tế cho thấy, quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là một trong những nội dung quan trọng đối với quản lý nhà nước về nông nghiệp. Nó không những thể hiện tính pháp lý và quyền sử dụng đất theo pháp luật mà nó còn thể hiện tính khoa học và nghệ thuật trong quá trình thực hiện. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải làm tốt chức năng của mình về lĩnh vực này nhằm sử dụng nguồn đất nông nghiệp có hiệu quả cao hơn.

    Từ cách tiếp cận trên có thể hiểu quản lý nhà nước đối với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ, chính sách, pháp luật và các quy định để quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động liên quan đến công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp nhằm khai thác, sử dụng loại đất này có hiệu quả, thúc đẩy nông nghiệp phát triển toàn diện và bền vững
    Trong thực tiễn khi quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp thường nảy sinh yêu cầu xây dựng quy hoạch chuyên ngành đối với các công trình cơ sở hạ tầng gắn liền với đất như: hệ thống giao thông, mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống các điểm dân cư
    . Để đảm bảo thống nhất giữa quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và các công trình trên, cần dựa trên cơ sở dự báo sử
    dụng đất chung của vùng.

    Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp không làm thay các quy hoạch chuyên ngành. Trong phương án quy hoạch sử dụng
    đất nông nghiệp, các công trình liên quan tới đất (như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, đai rừng, điểm dân cư ) được thể hiện dưới dạng sơ đồ phân bố và xử lý số liệu theo các chỉ tiêu tổng quát. Trên cơ sở sơ đồ phân bố, khi có nhu cầu sẽ xây dựng dự án quy hoạch chuyên ngành theo từng công trình riêng biệt (thiết kế lại mạng lưới tưới tiêu, các trạm bơm, mạng lưới đường, quy hoạch các điểm dân cư nông thôn .).

    Như vậy, các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hợp lý đất nông nghiệp được thực hiện theo tuần tự từ quy hoạch tổng thể sử dụng đất nông nghiệp đến các dự án quy hoạch chuyên ngành sẽ cho phép giải quyết cụ thể các vấn đề về sử dụng đất (trồng trọt, tưới tiêu, cơ giới hoá .) trên cơ sở áp dụng các tiến bộ và thành tựu của khoa học kỹ thuật.
    Chính vì đất nông nghiệp là điều kiện của sản xuất, là cơ sở không gian để phát triển các ngành kinh tế quốc dân, nên mọi vấn đề về sử dụng hợp lý đất đai ở các cấp độ khác nhau (dự báo, phương án quy hoạch, dự án quy hoạch chuyên ngành .) đều liên quan đến các lĩnh vực như: năng lượng, công nghiệp, giao thông, xây dựng. và đặc biệt là dự báo việc phát triển và phân bố lực lượng sản xuất.

    Định hướng sản xuất đất đai được đề cập trong nhiều tài liệu dự báo khoa học kỹ thuật thuộc các cấp và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, việc xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng đất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tính chất tổng hợp, dựa trên cơ sở của các tài liệu khảo sát chuyên ngành, đưa ra định hướng phân bố và tạo điều kiện thuận lợi về mặt không gian để thực hiện các quyết định về sử dụng đất trong giai đoạn trước mắt, hoàn thiện về các chỉ tiêu kỹ thuật vào tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng đất.
    Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn thể hiện rõ tính kỹ thuật cũng như ý nghĩa pháp lý. Các quyết định về quy hoạch sử dụng đất vừa là cơ sở không gian để bố trí các công trình, vừa là căn cứ kỹ thuật để lập kế hoạch đầu tư chi tiết.

    Xem xét mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và quản lý đất này cho thấy: các tài liệu về thống kê số lượng, chất lượng đất cũng như việc đăng ký đất phục vụ cho việc lập quy hoạch sử dụng nó. Ngược lại, cơ cấu đất được tạo ra trong quá trình quy hoạch sử dụng là cơ sở để thống kê đất đai. Các số liệu về phân hạng đánh giá đất cũng được sử dụng để lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp toàn quốc, cấp vùng và cấp tỉnh là quy hoạch chiến lược, dùng để khống chế vĩ mô và quản lý kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch cấp huyện phải phù hợp và hài hoà với quy hoạch cấp tỉnh. Quy hoạch cấp huyện là giao điểm giữa quy hoạch quản lý vĩ mô và vi mô, quy hoạch cấp xã là quy hoạch vi mô và làm cơ sở để thực hiện quy hoạch thiết kế chi tiết.

    1.1.3. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
    Một trong những vấn đề quan trọng của Nhà nước là phải quản lý nguồn lực đất nông nghiệp có hiệu quả. Muốn vậy, phải quan tâm trước hết đó là công tác quy hoạch sử dụng nó. Vai trò quản lý của nhà nước trong quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau:

    Thứ nhất, quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất nông ngghiệp sẽ đảm bảo cho việc sử dụng đất này có hiệu quả.
    Trong xã hội có giai cấp bóc lột, đất nông nghiệp chủ yếu nằm trong tay giai cấp thống trị và giai cấp địa chủ. Do đó quan hệ ruộng đất chủ yếu trong các chế độ xã hội này là mối quan hệ giữa các chủ ruộng đất và nông dân làm thuê, giữa giai cấp bóc lột và người bị bóc lột. Trong xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ chủ yếu về đất nông nghiệp là mối quan hệ giữa nhà nước (chủ sở hữu ruộng đất) và các chủ sử dụng đất (các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tư nhân). Nhà nước tạo mọi điều kiện môi trường thuận lợi cho các đối tượng sử dụng đất phát huy khả năng của mình để tăng giá trị canh tác trên 1đơn vị diện tích. Do vậy sự quản lý của nhà nước đối với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp có vai trò đảm bảo cho quá trình sử dụng loại đất này có hiệu quả trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế của nó trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp.

    Thứ hai, đất nông nghiệp được sử dụng dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau như: nông hộ, trang trại, nông trường, sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau. Trong khi đó để đảm bảo phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng bền vững, đòi hỏi phải có một quy mô sản xuất với một diện tích đất phù hợp. Sự quản lý của nhà nước trong công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là nhằm xây dựng chiến lược lâu dài về sử dụng đất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, không thể mỗi một chủ sử dụng đất có thể giải quyết được vấn đề có tính chiến lược, tính dài hạn, tính tổng hợp, tính lịch sử - xã hội trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời là cơ sở để nhà nước ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy việc quy hoạch sử dụng đất có hiệu quả, như: tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thúc đẩy thương mại, phân bố lại lực lượng lao động, dân cư .

    Thứ ba, sản xuất nông nghiệp gắn liền với đặc điểm của đất nông nghiệp, đó là tính giới hạn, tính cố định, tính không thể thay thế; trong khi đó lịch sử dụng đất cho thấy, sự chuyển đổi ngày càng nhiều diện tích đất nông nghiệp sang các mục đích sử dụng khác, như: mục đích đất ở dân cư, đất xây dựng đô thị, khu công nghiệp, đất an ninh quốc phòng, đất giao thông thuỷ lợi .áp lực sử dụng đất ngày càng gia tăng. Do đó xu thế sử dụng đất nông nghiệp có sự gia tăng về hiệu quả sử dụng, đảm bảo thu nhập trên một đơn vị diện tích ngày càng cao hơn. Xét trên góc độ này cho thấy, sự quản lý của nhà nước đối với công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo được tính chiến lược về xu hướng sử dụng đất, xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng để từ đó có biện pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phân bố, sử dụng loại đất này một cách có hiệu quả cao.

    Thứ tư, sản xuất nông nghiệp có địa bàn phân bố rất rộng và trên nhiều loại địa hình khác nhau, do vậy quá trình sản xuất nông nghiệp chịu sự chi phối rất lớn của hệ thống các công trình hạ tầng công cộng, như giao thông, thuỷ lợi, . Hơn nữa từng chủ thể có liên hệ rất mật thiết với nhau trong quá trình canh tác, như vấn đề xác định mùa vụ, tưới - tiêu, bảo vệ thực vật; nhiều loại nông sản được chế biến không những theo mối liên hệ ranh giới hành chính địa phương mà còn là mối liên hệ vùng, khu vực, thậm chí mang tính quốc gia. Xét trên góc độ này cho thấy, sự can thiệp của nhà nước đối với công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo giải quyết những vấn đề về hệ thống hạ tầng kinh tế, mối liên hệ giữa các vùng, khu vực và quốc gia.
    1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...