Luận Văn Quản lý nhà nước đối với nguồn vốn vay nước ngoài đầu tư cho giáo dục đào tạo ở nước ta - thực trạng

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Trong xã hội hiện đại, GDĐT luôn là lĩnh vực được coi trọng ở hầu hết
    các quốc gia trên thế giới. Đây được coi là lĩnh vực chủ yếu nâng cao chất
    lượng nguồn nhân lực, góp phần to lớn vào việc bảo đảm sự phát triển KTXH
    một cách bền vững. Mục tiêu của GDĐT là nâng cao dân trí, đào tạo
    nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
    Ở Việt Nam, ngay từ khi mới dành được chính quyền, Đảng và Nhà
    nước đã luôn quan tâm và chú trọng đặc biệt đến lĩnh vực GDĐT. Cùng với
    khoa học và công nghệ, GDĐT được coi là quốc sách hàng đầu. Văn kiện
    Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: Tăng cường đầu tư vào phát triển con
    người thông qua phát triển mạnh GDĐT, khoa học và công nghệ. Đảm bảo
    nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
    của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
    Với nhận thức con người là nhân tố quyết định cho sự phát triển, vừa là
    động lực, vừa là mục đích của sự nghiệp cách mạng, nguyên Tổng bí thư Đỗ
    Mười đã nói: Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
    phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây
    dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Tuy trong điều
    kiện đất nước còn khó khăn, nhưng những năm qua, Nhà nước ta đã coi đầu
    tư cho GDĐT là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển: đầu tư
    cho sự nghiệp GDĐT tăng lên đáng kể; năm 2005, chi cho GDĐT chiếm
    18% tổng chi NSNN; đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển
    GDĐT Những cố gắng đầu tư đó đã giúp cho cơ sở vật chất của Ngành
    được cải thiện, góp phần quan trọng trong việc nâng cấp hệ thống trường
    học, tăng cường trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập, nâng cao đời
    sống cán bộ giáo viên.
    Trên thực tế, việc đầu tư cho GDĐT đòi hỏi những khoản tiền rất lớn.
    Do đó, Đảng ta đã xác định: dành tỷ lệ thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội
    hoá phát triển GDĐT; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
    GDĐT’’. Quán triệt quan điểm đầu tư cho GDĐT là một loại đầu tư cho phát
    triển, Nhà nước ta đã ngày càng tăng cường đầu tư, tăng tỷ trọng chi NSNN
    cho GDĐT, đồng thời ban hành các chính sách thích hợp nhằm huy động các
    nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả nguồn
    vốn vay ưu đãi của nước ngoài thuộc nguồn vốn ODA để phát triển GDĐT.
    Có thể nói, việc tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay
    2
    này để đầu tư cho GDĐT trong bối cảnh hiện nay là một trong những giải
    pháp quan trọng giúp cho việc tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật,
    tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
    Với ý nghĩa quan trọng đó, Nhà nước luôn luôn coi trọng công tác quản
    lý, sử dụng nguồn vốn ODA phục vụ phát triển KT-XH nói chung và vốn vay
    nước ngoài đầu tư cho GDĐT nói riêng. Ngay từ Hội nghị đầu tiên các nhà
    tài trợ dành cho Việt Nam (tháng 11/1993), Chính phủ đã tuyên bố quan
    điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng vốn ODA: Điều quan trọng là
    nguồn vốn bên ngoài phải sử dụng có hiệu quả. Chính phủ nhận trách nhiệm
    điều phối và sử dụng vốn vay, viện trợ nước ngoài, với nhận thức sâu sắc
    rằng nhân dân Việt Nam là người phải gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất
    bại nếu nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả. Kể từ đó cho đến
    nay, khung pháp luật, cơ chế chính sách và bộ máy để quản lý, sử dụng
    nguồn vốn ODA nói chung và vốn vay nước ngoài đầu tư cho GDĐT nói
    riêng ngày càng được hoàn thiện.
    Tuy nhiên, đây là vấn đề mới mẻ và phức tạp, nên QLNN đối với
    nguồn vốn này còn bộc lộ một số hạn chế, trở ngại như: khung pháp luật và
    cơ chế chính sách chưa đồng bộ, trình độ và năng lực của bộ máy điều hành
    vẫn còn nhiều bất cập. Điều đó đã làm hạn chế khả năng huy động và sử
    dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài dành cho phát triển GDĐT ở
    nước ta.
    Đầu tư cho GDĐT bình quân đầu người ở nước ta hiện còn thấp, chỉ
    mới bằng 1/10 mức trung bình và 1/100 mức cao của thế giới. Trong khi đó,
    nguồn vốn trong nước rất khó đáp ứng nhu cầu đầu tư cho GDĐT. Chính vì
    vậy, nguồn vốn vay nước ngoài đầu tư cho lĩnh vực này không chỉ cần thiết
    trong giai đoạn hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài. Để sử dụng một cách có
    hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài đầu tư GDĐT, khắc phục những hạn chế
    còn tồn tại, cần phải làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề quan trọng cả về lý luận
    và thực tiễn, nhất là về cơ chế, chính sách, bộ máy quản lý trong lĩnh vực
    này. Xuất phát từ thực tế trên đây, tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước
    đối với nguồn vốn vay nước ngoài đầu tư cho GDĐT ở nước ta - Thực
    trạng và giải pháp’’ làm luận án tiến sĩ kinh tế.
    2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
    Thu hút và quản lý nguồn viện trợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn
    vay ODA nói riêng luôn là chủ đề thu hút được sự quan tâm của đông đảo
    các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, các tổ chức ở cả trong nước và quốc tế,
    3
    nhất là từ khi xảy ra vụ PMU 18. Các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực
    này khá phong phú dưới các giác độ và nội dung khác nhau. Trong đó, điểm
    chung của các công trình này là tập trung làm rõ vai trò, đặc điểm của vốn
    ODA trong nền kinh tế cũng như đối với một ngành; mô tả, đánh giá quy
    trình vay vốn giải ngân và sử dụng nguồn vốn này; một số ít công trình đã đề
    cập đến quản lý vốn ODA nhưng chủ yếu dưới giác độ quản lý sử dụng. Đề
    tài kế thừa chọn lọc các vấn đề lý luận của các công trình nghiên cứu trên để
    phát triển thành cơ sở lý luận của luận án về QLNN đối với nguồn vốn ODA
    nói chung và nguồn vốn vay ODA đầu tư cho GDĐT nói riêng.
    Về đầu tư cho GDĐT, các công trình thuộc lĩnh vực này khá phong
    phú và có mặt trên hầu hết các thể loại tài liệu như sách, kỷ yếu hội thảo, bài
    viết trên tạp chí, các đề tài khoa học Khó có thể liệt kê đầy đủ các công
    trình thuộc nhóm này bởi khối lượng khá đồ sộ và phạm vi nghiên cứu rất
    rộng. Các công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, có liên quan đến đối
    tượng nghiên cứu của đề tài luận án phải kể đến các luận văn thạc sĩ, luận án
    tiến sĩ. Đây là nhóm công trình đồ sộ về số lượng và nghiên cứu khá toàn diện
    về các vấn đề liên quan đến đầu tư cho GDĐT. Chẳng hạn như:
    - Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Thị Thu Hà (1993): "Đổi mới
    và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân", với
    những phân tích khá sắc sảo về hiện trạng cơ chế quản lý ngân sách và đề
    xuất hệ thống giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngân sách cho
    toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
    - Luận án tiến sĩ giáo dục của tác giả Lê Xuân Trường (2003) với đề tài:
    "Một số biện pháp sử dụng nguồn lực tài chính nhằm phát triển giáo dục phổ
    thông trong giai đoạn hiện nay" đã phân tích có hệ thống cơ sở lý luận của
    việc sử dụng hợp lý nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục phổ thông;
    phân tích thực trạng việc sử dụng nguồn lực tài chính cho giáo dục phổ thông
    ở Việt Nam thời gian qua và xu thế trong thời gian tới. Qua đó đề xuất biện
    pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục.
    Với cách tiếp cận, phân tích quản lý tài chính từ chuyên ngành giáo dục học
    nên những kết luận có giá trị tham khảo ở mức độ nhất định.
    - Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Duy Phong (2003) với đề
    tài: "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục phổ thông ở Hà
    Nội" đã chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục
    phổ thông trên địa bàn Hà Nội. Bằng việc hệ thống hoá một số vấn đề lý luận
    về giáo dục, cơ chế quản lý tài chính giáo dục, luận án đã đi sâu phân tích
    4
    thực trạng cơ chế quản lý tài chính giáo dục ở thành phố Hà Nội, từ đó đề
    xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện cơ chế này trong giáo dục
    phổ thông ở Hà Nội. Đây là công trình khá hệ thống, đầy đủ với số liệu cập
    nhật tính đến thời điểm công bố nhưng giới hạn nghiên cứu là giáo dục phổ
    thông trên phạm vi Thủ đô, hơn nữa, cơ chế tài chính của giáo dục phổ thông
    và giáo dục đại học hoàn toàn khác nhau, do đó những kết luận của đề tài chỉ
    mang tính tham khảo.
    - Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đặng Văn Du (2003) với tên đề
    tài: "Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho đào tạo đại học ở
    Việt Nam” đã phân tích khá sâu sắc về đầu tư tài chính cho đào tạo đại học.
    Luận án đã xây dựng các tiêu chí phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả đầu tư
    tài chính cho đào tạo đại học ở Việt Nam, qua đó phân tích thực trạng đầu tư
    tài chính và đánh giá hiệu quả của chúng qua các tiêu chí được xây dựng.
    Luận án cũng đã đề xuất hệ thống giải pháp tương đối toàn diện và có tính
    khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính đại học ở nước ta. Có thể
    nói, đây là công trình nghiên cứu công phu với những kết luận sắc sảo, có
    căn cứ lý luận và cơ sở thực tiễn và là tài liệu tham khảo tốt không chỉ cho
    các nhà quản lý giáo dục, mà còn cho các nhà nghiên cứu về tài chính.
    - Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Phước Minh (2005) với đề tài: "Hoàn
    thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam" đã tập trung
    nghiên cứu chính sách tài chính cho giáo dục đại học. Trên cơ sở tổng hợp lý
    luận và thực tiễn về chính sách tài chính cho giáo dục đại học trong và ngoài
    nước, luận án đã đi sâu phân tích thực trạng chính sách tài chính cho giáo dục
    ở Việt Nam, đồng thời làm rõ các cơ hội, thách thức và đề xuất quan điểm,
    giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học ở nước
    ta. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về chính sách tài chính cho
    GDĐH với hệ thống số liệu cập nhật, những kết luận thuyết phục, hệ thống
    giải pháp mang tính khả thi cao và là tài liệu tham khảo quan trọng cho
    những nhà hoạch định và thực thi chính sách tài chính cho giáo dục đại học.
    Tuy nhiên, thu hút và quản lý nguồn vốn vay ODA đầu tư cho GDĐT
    là lĩnh vực khá hẹp và cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn
    đề này. Các tài liệu liên quan thường dừng ở các bài phát biểu tại các buổi
    hội thảo hoặc đề tài cấp bộ với những nội dung mang tính khai phá. Đó là Đề
    tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2004: Vốn ODA với chiến lược phát
    triển giáo dục đại học của Việt Nam đến năm 2010 – Thực trạng và giải
    pháp, do tác giả Vũ Thị Kim Oanh, Trường Đại học Ngoại thương làm chủ
    5
    nhiệm. Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã hệ thống hoá những
    vấn đề chung về vai trò của ODA trong phát triển giáo dục và đánh giá thực
    trạng sử dụng vốn ODA cho phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam những
    năm qua. Từ đó, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp sử dụng có hiệu quả
    hơn vốn ODA cho chiến lược phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam đến
    năm 2010. Song do mục đích nghiên cứu, công trình này chưa đi sâu nghiên
    cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN đối với nguồn vốn vay ODA đầu tư
    cho GDĐT. Như vậy, có thể nói, đề tài luận án là công trình đầu tiên nghiên
    cứu về QLNN đối với nguồn vốn vay ODA đầu tư cho GDĐT ở Việt Nam.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...