Luận Văn Quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke tại thành phố Biên Hòa - Đồng Nai

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài

    Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.

    Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc coi trọng chính sách đầu tư văn hóa, đầu tư cho con người; khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo văn hóa, hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn là thể hiện vai trò của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Từ khi có Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997, Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày
    19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao đã mở đường cho cơ hội phát huy nguồn nội lực trong nhân dân cùng tham gia phát triển văn hóa theo mô hình xã hội hóa.

    Thực hiện chủ trương xã hội hóa đó, tỉnh Đồng Nai đã có bước phát triển rõ rệt của khu vực ngoài công lập; bước đầu huy động được tiềm năng và nguồn lực xã hội; mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình, tăng cường cơ sở vật chất, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Nghị định 73/1999/NĐ-CP ra đời đã tạo ra hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh với nhiều ưu đãi ở mức cao, nên đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Riêng tại thành phố Biên Hòa, đã nhanh chóng phát triển nhiều mô hình hoạt động văn hóa như: Các câu lạc bộ, đội nhóm văn hóa văn nghệ . do tư nhân bỏ vốn đầu tư; hoạt động vũ trường; cửa hàng kinh doanh băng đĩa hình, nhạc; tụ điểm hát cho nhau nghe; sân khấu ca nhạc ngoài trời; tụ điểm vui chơi giải trí dành cho thiếu nhi; chiếu phim; siêu thị sách . Đặc biệt, loại hình kinh doanh karaoke phát triển khá mạnh do các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở đầu tư ở mức độ vừa và nhỏ; đã góp phần làm phong phú, đa dạng hơn hoạt động văn hóa; thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng đến tham gia sinh hoạt vui chơi trong thời gian rỗi.

    Những năm đầu triển khai, một mặt đã phát huy được tính tích cực, góp phần không nhỏ cùng các thiết chế văn hóa của Nhà nước (Nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, bảo tàng ) nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân, được sự đồng tình của xã hội; khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Mặt khác, những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập, một bộ phận các chủ cơ sở karaoke vì “hám lợi” đã cạnh tranh không lành mạnh, đưa “chiêu bài” sử dụng tiếp viên nữ với nhiều phương thức “câu khách” làm cho hoạt động karaoke biến dạng một cách rõ nét. Các ngành nghề dịch vụ thương mại nhạy cảm khác như: nhà hàng, quán ăn, cà phê, quán bar (rượu, bia) len lỏi, hoạt động song hành với karaoke; từ đó đã xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, gây nhiều dư luận xã hội và báo chí đã lên tiếng cảnh báo; làm đau đầu các cơ quan quản lý trên lĩnh vực hoạt động này.

    Là một cán bộ đang công tác và gắn bó trong ngành văn hóa, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai. Trước “báo động” thực trạng hoạt động karaoke luôn diễn biến phức tạp. Tôi quyết định chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke tại thành phố Biên Hòa - Đồng Nai” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn hóa - chuyên ngành Quản lý Văn hóa. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình đưa karaoke trở về với mô hình văn hóa lành mạnh, ứng dụng thiết thực vào cuộc sống; kiến nghị một số giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động kinh doanh karaoke; góp phần cùng thành phố Biên Hòa - Đồng Nai và cả nước thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

    - Đề tài đi sâu tìm hiểu phân tích hoạt động dịch vụ karaoke, những vấn đề đặt ra với tư cách là sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần;

    - Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra của hoạt động dịch vụ karaoke ở các quán karaoke, nhà hàng karaoke, các tụ điểm karaoke trên địa bàn thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai.

    3. Phương pháp nghiên cứu.

    Căn cứ vào đường lối, chính sách pháp luật và các văn bản pháp quy của Đảng và nhà nước. Dựa trên cơ sở lý luận của Mác - Angghen về 2 hình thái sản xuất vật chất và tinh thần, cùng với hệ thống lý thuyết của khoa học liên ngành và nhu cầu hưởng thụ văn hóa giải trí của quần chúng nhân dân kết hợp các phương pháp:

    - Khảo sát thăm dò và quan sát tham dự.

    - Sưu tầm tổng hợp tư liệu và phân tích.

    4. Nhiệm vụ và đóng góp đề tài.

    Đề tài không đi sâu tìm hiểu nguồn gốc đặc trưng sự hình thành và phát triển của hoạt động karaoke, mà đi sâu phân tích để đi đến:

    - Khẳng định karaoke là một sản phẩm hàng hóa văn hóa tinh thần;

    - Tìm hiểu những yêu cầu khách quan và giá trị xã hội của hoạt động karaoke;

    - Tìm hiểu thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke;

    - Đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke.

    5. Bố cục đề tài.

    Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận được bố cục thành 3

    chương.

    CHƯƠNG I: Cơ sở khoa học của công tác quản lý hoạt động văn hóa và dịch vụ karaoke.

    CHƯƠNG II: Thực tiễn quản lý hoạt động kinh doanh karaoke ở thành phố Biên Hòa.

    CHƯƠNG III: Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke ở thành phố Biên Hòa.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...