Luận Văn Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 26/11/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mở đầu
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm về sự nghiệp giáo dục. Người chỉ ra
    rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam
    phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham
    gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”
    [20, tr.3]. Người cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường
    phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
    khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt
    Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
    với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
    các cháu” [18, tr.33]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của
    Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng xuyên
    suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính
    nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham
    muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
    ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [20, tr.161].
    Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chủ Tịch, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
    trương, chính sách và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
    dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả
    nước để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục tiểu
    học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông .Vấn đề
    phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và
    Nhà nước ta đang tập trung và ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và
    đã thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục.
    Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu tổng
    quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001- 2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình
    trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân,
    tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
    hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút




    ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước
    nhảy vọt .”. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
    nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
    Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thúc
    đẩy tiến bộ xã hội. Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đổi mới tư
    duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân
    từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
    thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
    xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta đã
    thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện trong thực tế: Hiến pháp năm
    1992 (sửa đổi năm 2001): "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội
    phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ." (Điều
    35); Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1998 (Sửa đổi, bổ sung năm
    2005); Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy định chi tiết và
    hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới
    chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo
    dục trung học cơ sở của Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000 .
    Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước
    đi theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, xây dựng một nền
    giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng,
    đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới,
    nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục
    tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010.
    Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu của Nhà nước, nhiều loại
    hình giáo dục đã được mở ra, trong đó có giáo dục ngoài công lập. Phát triển giáo dục ngoài
    công lập là đũi hỏi khỏch quan của cuộc sống, có cơ sở lý luận và thực tiễn. Trong hoàn
    cảnh đất nước cũn nhiều khú khăn, ngân sách của nhà nước chưa đủ để đầu tư lớn hơn cho
    giáo dục, thỡ việc huy động rộng rói cỏc nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục là một
    đũi hỏi tất yếu. Điều này đó được khẳng định trong các văn bản pháp quy và càng ngày càng
    được thể chế hoá một cách chặt chẽ, đồng bộ. Trong quá trỡnh triển khai, cỏc chớnh sỏch
    của trung ương cũng như của địa phương về các trường ngoài công lập đó ngày càng hoàn




    thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu của người học. Điều đó đó
    tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập gần đây phát triển cả về chất lượng và số lượng.
    Nhỡn một cách bao quát, càng ngày giáo dục ngoài công lập nói chung và các trường
    ngoài công lập ở trung học phổ thông nói riêng càng đạt được nhiều thành tựu to lớn và có
    vai trũ quan trọng hơn trong sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước, đặc biệt là góp
    phần thúc đẩy tiến độ phổ cập giáo dục trung học, đáp ứng được nhu cầu học tập rộng rói
    của học sinh.
    Bên cạnh nhiều thành tựu đó đạt được, đến nay, các trường trung học phổ thông
    ngoài công lập cũng bộc lộ khá rừ những mặt hạn chế, cần phải được nhanh chóng khắc
    phục. Chẳng hạn như mạng lưới các trường ngoài cụng lập phõn bố bất hợp lý, cơ sở vật
    chất thiếu thốn, đội ngũ giáo viên và cỏn bộ quản lý vừa thiếu vừa cũn nhiều bất cập, việc
    huy động và sử dụng các nguồn lực chưa khoa học, chưa mang lại hiệu quả mong
    muốn Đặc biệt là việc quản lý, chỉ đạo loại hỡnh trường này từ trung ương tới địa phương
    nhỡn chung cũn lỏng lẻo và cú nhiều hạn chế, khiến cho chất lượng đào tạo của loại hỡnh
    trường này chưa cao, nhà trường phát triển thiếu bền vững, thậm chí vận hành có phần
    phiến diện. ở một số địa phương, nhất là ở một số thành phố lớn đó những trường phát sinh
    mâu thuẫn, tiêu cực đến mức buộc phải giải thể.
    Thực tế gần hai chục năm qua cho thấy, chủ trương xó hội hoỏ giỏo dục của Đảng và
    Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn ở cả phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là
    trong tương lai sẽ có nhiều trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài
    công lập nói riêng tiếp tục được ra đời. Nhưng để loại hỡnh trường ngoài công lập có thể
    phát triển theo chiều hướng lành mạnh, chất lượng đào tạo ngày một nâng cao thỡ khụng thể
    khụng cú sự nghiờn cứu đầy đủ về quản lý nhà nước đối với loại hỡnh trường này, để từ đó
    đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trường trung học
    phổ thông ngoài công lập.
    Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đó lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước bằng
    pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập” làm đề tài luận văn cao học
    Quản lý Hành chính công.
    2. Tình hình nghiên cứu
    Liên quan đến đề tài, đó có nhiều công trỡnh nghiên cứu khoa học được công bố ở




    trong nước như:
    - Trường tư và trường ngoài công lập ở các nước phát triển phương Tây - Nguyễn
    Thị Hiền, tạp chí Thông tin giáo dục, số 64, năm 1997. Tác giả đó khái quát sự khác biệt
    giữa trường công lập cũng như chính sách phát triển các trường tư ở một số nước phát triển
    như: Anh, Pháp, Đức .;
    - Một số vấn đề cấp bách trong công tác tổ chức quản lí các trường phổ thông dân
    lập - Nguyễn Văn Đản, Thông tin khoa học giáo dục, số 67, năm 1998. Bài báo nêu lên
    những hạn chế trong công tác quản lý các trường phổ thông ngoài dân như: sự quan tâm
    chưa đúng mức của các cơ quan quản lý, hệ thống văn bản pháp luật cho các trường này cũn
    thiếu, chưa rừ, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền cũn lỏng lẻo .; những
    khó khăn của các trường phổ thông dân lập về đất đai, tài chính, đối tượng tuyển sinh, chất
    lượng giáo viên . Trên cơ sở đó, bài báo đó nêu ra một số vấn đề cần thực hiện như: cần có
    những quy định cụ thể về trường phổ thông dân lập, có cơ chế cụ thể về đất đai, tài chính
    cho trường phổ thông ngoài dân lập, tăng cường công tác kiểm tra đối với giáo dục phổ
    thông ngoài dân lập .;
    - Các giải pháp cải tiến cơ chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập thành
    phố Hải Phũng - Nguyễn Thị Mai, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành "Quản lý và tổ chức
    công tác văn hóa giáo dục", Mó số: 5.07.03. Năm 2000. Luận văn đó đánh giá thực trạng cơ
    chế quản lý trường trung học phổ thông dân lập tại Hải Phũng, đề xuất các giải pháp cải tiến
    cơ chế quản lý các trường trung học phổ thông dân lập ở Hải Phũng như: tiếp tục hoàn thiện
    văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phổ thông dân lập, đẩy mạnh phân cấp quản lý,
    nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý ở Hải Phũng .;
    - Những cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng qui chế trường phổ thông ngoài công
    lập, Đề tài cấp Bộ, mó số B 97- 49- 40 - TS. Nguyễn Văn Đản (Viện Khoa học giáo dục)
    làm chủ nhiệm, năm 2001. Nhóm nghiên cứu đề tài đó chỉ ra những cơ sở lý luận và thực
    tiễn của việc xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài công lập như: xuất phát từ quan
    điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và xó hội hóa giáo dục, vai trũ của sự tham gia xó hội
    vào công tác giáo dục, thực trạng tổ chức và hoạt động của các trường phổ thông ngoài công
    lập những năm trước 2000 . để làm căn cứ xây dựng quy chế trường phổ thông ngoài dân
    lập;
    - Giáo dục phổ thông ngoài công lập thành tựu và tồn tại - Phạm Quang Sáng, tạp




    chí Thông tin giáo dục số 114/2005. Tác giả đó nêu lên những thành tựu của giáo dục phổ
    thông ngoài công lập như: sự phát triển mạnh về số lượng, sự thu hút vốn đầu tư của xó hội
    vào lĩnh vực giáo dục, tạo ra sự cạnh tranh giữa khu vực công và khu vực tư trong giáo dục,
    nhiều cơ sở giáo dục phổ thông ngoài dân lập đó tạo được vị trí vững chắc trong xó hội, có
    chất lượng đào tạo tốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng đó chỉ ra những hạn chế như: nhiều trường
    có sở vật chất cũn nghèo nàn; đội ngũ giáo viên cơ hữu cũn thiếu; chất lượng giáo dục chưa
    cao; thực hiện quy chế chưa nghiêm .;
    - Thực trạng và giải pháp củng cố, phát triển các trường ngoài công lập ngành học
    mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010 - Đề tài
    khoa học cấp thành phố năm 2006. Nội dung đề tài đó phân tích, đánh giá thực trạng các
    trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn
    Hà Nội từ khi đổi mới đến 2004 và đề xuất các giải pháp củng cố, phát triển chúng. Về thực
    trạng, đề tài đó nêu ra những kết quả đạt được của các trường ngoài công lập ngành học
    mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội như: Sự phát triển về số
    lượng các trường, số học sinh; sự phát triển về cơ sở vật chất, đổi mới nội dung, phương
    pháp giáo dục; bên cạnh đó, đề tài chỉ ra những yếu kém như: năng lực quản lý của Hội
    đồng quản trị, Hiệu trưởng, sự thiếu hụt của đội ngũ giảng viên cơ hữu; chất lượng giáo dục;
    bất cập trong quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ
    thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề tài đó đề xuất một
    loạt các giải pháp để củng cố, phát triển chúng: Thành phố có chính sách cụ thể để tạo kiện
    thuận lợi trong việc các trường thuê đất; đảm bảo sự bỡnh đẳng giữa trường công lập và
    trường dân lập; nâng cao chất lượng bộ máy làm công tác quản lý trong các trường; đổi mới
    nội dung quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ
    thông, giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội .
    Nhỡn chung, cỏc cụng trỡnh trờn đây mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu lý luận và chỉ
    ra những tồn tại của trường ngoài công lập nói chung, chưa có công trỡnh nào trực tiếp
    nghiờn cứu về trường trung học phổ thông ngoài công lập. Vỡ thế cú thể coi đây là công
    trình đầu tiên nghiên cứu dưới góc độ quản lý nhà nước đối với trường trung học phổ thông
    ngoài công lập.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn




    - Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cơ sơ lý luận của việc QLNN bằng
    pháp luật đối với trường ngoài công lập nói chung, trung học phổ thông ngoài công lập nói
    riêng; từ đó đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm qua, trên cơ sở đó đề
    xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
    đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay.
    - Nhiệm vụ nghiên cứu:
    + Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với
    trường trung học phổ thông ngoài công lập, đồng thời phân tích vai trò, nội dung của QLNN
    bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập;
    + Nêu lên những đặc thù và những yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý
    nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập;
    + Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản trong QLNN
    bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở nước ta trong những
    năm qua và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
    + Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm tăng
    cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt
    Nam trong giai đoạn hiện nay.
    4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
    QLNN bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập là một vấn đề rộng và phức tạp,
    bởi hiện nay, hệ thống các trường ngoài công lập đó phỏt triển khỏ đồng bộ từ mẫu giáo đến
    tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học dạy nghề, cao đẳng và đại học.
    Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý
    nhà nước bằng pháp luật đối với trường ngoài công lập thuộc hệ trung học phổ thông và
    thực tiễn QLNN đối với loại hỡnh này. Các trường trung học chuyên nghiệp, trung học dạy
    nghề cũng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
    5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
    Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
    Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển giáo dục
    nói chung, giáo dục ngoài công lập nói riêng và QLNN bằng pháp luật đối với trường trung
    học phổ thông ngoài công lập.




    - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phép duy vật
    biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp: khảo sát, phân tích, tổng hợp, so
    sánh, phương pháp lịch sử cụ thể trong quá trình nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách
    toàn diện.
    6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
    Luận văn đã xây dựng được khái niệm: QLNN bằng pháp luật đối với đối với trường
    trung học phổ thông ngoài công lập; phân tích những đặc điểm cơ bản, vai trò, nội dung của
    QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt Nam hiện
    nay.Trên cơ sở đó nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng QLNN bằng pháp luật đối với
    trường trung học phổ thông ngoài công lập, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm
    tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Việt
    Nam hiện nay.
    7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
    Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho
    hoạt động nghiên cứu lý luận về QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông
    ngoài công lập. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu,
    giảng dạy và học tập trong các trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt, những kết quả đó
    có ý nghĩa góp phần tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông
    ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay.
    8. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
    chương.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...