Thạc Sĩ Quản lí vốn khả dụng trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 22/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ năm 2013
    Đề tài: Quản lí vốn khả dụng trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Vốn khả dụng là vốn sẵn sàng để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của TCTD.
    Vốn này để đáp ứng y êu cầu dự trữ bắt buộc của NHTƯ và phần dư thừa để thực
    hiện các nghĩa vụ thanh toán với khách hàng, với Ngân sách Nhà nước, giao dịch
    với đối tác, trả nợ cho NHTƯ. Các TCTD sẽ duy trì vốn khả dụng dưới hai hình
    thức: tại quỹ của TCTD và gửi tại NHTƯ. Phần vốn khả dụng dư thừa là phần có
    tính lỏng cao nhất, TCTD sẽ quyết định tỷ trọng phần tiền giữ tại TCTD hay NHTƯ
    dựa theo nhu cầu thanh toán từng thời điểm. Như vậy, phần vốn khả dụng giữ tại
    NHTƯ bao gồm: tiền gửi DTBB và một phần dự trữ dư thừa để đáp ứng nhu cầu
    thanh toán của TCTD. NHTƯ quản lý phần VKD nằm tại NHTƯ thông qua việc
    thiết lập hệ thống khuôn khổ, xây dựng quy tắc sử dụng các biện pháp can thiệp, chi
    phối khối lượng giao dịch VKD trên thị tr ường tiền tệ để điều chỉnh trạng thái VKD
    trên TTLNH, chi phối tới hành vi điều chỉnh cân bằng giữa phần VKD gửi tại
    NHTƯ với phần tại quỹ của TCTD để đảm bảo hoạt động bình thường của mình, từ
    đó tác động tới lãi suất thị trường nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của Chính
    sách tiền tệ.
    Để thực hiện quản lý VKD, NHTƯ cần dự báo trạng thái VKD trên thị
    trường, xác định khối lượng cần can thiệp và đưa ra các biện pháp điều chỉnh trạng
    thái VKD trên thị trường để đạt được mục tiêu điều hành CSTT. Tùy từng quốc gia,
    với đặc điểm về thể chế chính trị, mức độ phát triển của nền kinh tế cũng như tính
    hiệu lực trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ mà mức độ ảnh hưởng của
    từng nhân tố cấu thành nên cung cầu VKD tại NHTƯ cũng như mức độ dự báo và
    kiểm soát từng nhân tố cấu thành VKD của NHTƯ cũng có sự khác nhau.
    Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang dần hoàn thiện công tác quản lý VKD
    như: hoàn chỉnh phương pháp dự báo, bổ sung nguồn thông tin báo cáo phục vụ
    công tác dự báo, cải thiện tính đồng bộ của hệ thống biện pháp can thiệp, Mặc dù
    có nhiều sự cố gắng, kết quả dự báo dần chính xác hơn, các công cụ được sử dụng
    linh hoạt, tạo ra các biến động phù hợp với yêu cầu của thị trường và đạt mục tiêu
    2
    của NHNN hơn nhưng kết quả quản lý VKD của NHNN còn gặp nhiều hạn chế,
    trạng thái VKD của thị trường không biến động tích cực sau can thiệp của NHNN,
    lãi suất chỉ đạo không định hướng được mức lãi suất của thị trường, các hoạt động
    điều hành của NHNN đi sau thị trường, thị trường không quan tâm tới các động thái
    điều hành từ NHNN. Nguy ên nhân làm ảnh hưởng tới kết quả quản lí VKD của
    NHNN Việt Nam là tính thiếu đồng bộ của hệ thống thông tin báo cáo, kĩ thuật dự
    báo còn mang tính ngắn hạn, khả năng dự báo và quản lí VKD hạn chế, sự phối kết
    hợp giữa các chính sách vĩ mô chưa thống nhất dẫn đến sự bị động của NHNN
    trong việc điều chỉnh trạng thái VKD để đạt được mục tiêu của CSTT.
    Xuất phát từ y êu cầu thực tiễn nêu, luận án đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là:
    "Quản lý VKD trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
    Nam" để đóng góp đầy đủ hơn các luận cứ khoa học của công tác quản lý VKD,
    thực tiễn thực hiện tại NHNN VN và từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
    công tác quản lý VKD nhằm đáp ứng y êu cầu về hiệu quả điều hành CSTT.
    2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
    Quản lí vốn khả dụng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung
    ương là đề tài khái quát về nhiều mảng nội dung, bao hàm việc làm rõ khái niệm về
    vốn khả dụng, trên phương diện của NHTM và trên phương diện NHTƯ, từ đó làm
    sáng tỏ việc NHTƯ quản lí VKD, dự báo cung cầu vốn khả dụng trên thị trường, đo
    lư ờng sự biến động trong quan hệ cung cầu để đưa ra các biện pháp can thiệp, điều
    chỉnh mối quan hệ đó và đạt được mục tiêu điều hành của NHTƯ thông qua sự biến
    động các điều kiện trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
    Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến từng nội dung liên
    quan đến đề tài về về Chính sách tiền tệ (các công cụ của Chính sách tiền tệ, mục
    tiêu của Chính sách tiền tệ ), thị trường tiền tệ tuy nhiên các tài liệu liên quan trực
    tiếp đến mảng quản lí VKD của NHTƯ trong điều hành CSTT được công bố trên
    th ế giới chưa nhiều. Các tác giả đại diện cho những nghiên cứu về vấn đề này có:
    Ulrich Bindseil (2000), Falko Fecht, Kjell G. Nyborg, J’org Rocholl (2007), Simon
    T Gray (2008), Mohamed Afzal Norat (2008). Ngoài ra, các tổ chức như Quỹ tiền tệ
    3
    quốc tế (IMF), Ngân hàng trung ương Châu Âu và Cục dự trữ liên bang Mỹ cũng có
    một số bài nghiên cứu liên quan đến đề tài.
    Tác giả Ulrich Bindseil của NHTƯ Châu Âu năm 2000 có bài nghiên cứu: Lí
    thuyết và thực tế tại Khu vực đồng Euro. Trong đó, tác giả giải thích ngắn gọn khái
    niệm về quản lí VKD của NHTƯ, đặc biệt tập trung vào mối quan hệ giữa lượng
    vốn khả dụng tại NHTƯ, lãi suất qua đêm và các vấn đề liên quan tới hiệu ứng
    thông báo của thị trường. Tác giả đã giải thích một số thuật ngữ liên quan tới quản lí
    VKD từ đó liên hệ với thực tế quản lí VKD trong khu vực đồng Euro trong thời
    gian 15 tháng kể từ khi bắt đầu sử dụng đồng tiền chung, sử dụng mô hình phân tích
    hồi quy đơn giản để giải thích sự ảnh hưởng của trạng thái VKD tới EONIA.
    Năm 2007, Falko Fecht, Kjell G. Nyborg, J’org Rocholl khi nghiên cứu về
    Quản lí VKD và những ảnh hưởng tới lãi suất qua đêm: Bằng chứng từ NH Đức đã
    nghiên cứu về dữ liệu biến động lãi suất liên ngân hàng qua đêm (EONIA) trong
    khu vực đồng tiền chung Châu Âu và phân tích sự khác biệt hành vi của ngân hàng
    Đức so với các NHTƯ thành viên khác khi dự báo có sự thay đổi giá cho việc nắm
    giữ dự trữ. Vào đầu của kì duy trì, khi EONIA thường là cao hơn mức trung bình, các
    tác giả quan sát các ngân hàng Đức giảm lượng dự trữ bình quân thấp hơn mức dự trữ
    bắt buộc phải duy trì để thúc đẩy bán vốn ra thị trường. Vì vậy, ngược lại với các
    NHTƯ thành viên khác, giai đoạn sau của kì duy trì, ngân hàng Đức phải lấp đầy các
    yêu cầu dự trữ của do đó được hưởng lợi từ mô hình chung trong EONIA. Điểm quan
    trọng nhất của nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ngày cuối cùng của tháng có ảnh hưởng
    tới EONIA và gây thiếu hụt VKD tạm thời trên TT LNH, đây chính là một gợi ý quan
    trọng trong quản lí VKD liên quan đến thời điểm can thiệp thị trư ờng.
    Simon T Gray là tác giả có nhiều nghiên cứu về NHTƯ và công tác quản lí
    VKD của NHTƯ. Trong nghiên cứu về Dự báo vốn khả dụng (2008), tác giả giải
    thích sự cần thiết của dự báo VKD thông qua sử dụng BCĐ TT để thực hiện điều
    hành CSTT. Khi NHTƯ dự báo được khả năng biến động của Cung, Cầu VKD
    thông qua ph ần dự trữ của NHTM gửi tại NHTƯ thì có th ể điều chỉnh Cung VKD
    để cho phù hợp với Cầu VKD thông qua sử dụng các biện pháp như: nghiệp vụ Thị
    4
    trường mở để bơm hay hút VKD từ hệ thống NH hay cho phép các NH sử dụng các
    phương tiện thường xuy ên để vay hoặc gửi. Các biện pháp can thiệp nhằm quản lí
    VKD và điều hành CSTT sẽ tạo ra hiệu ứng thông báo tới nền kinh tế cũng như tới
    hệ thống NH. NHTƯ cần biết về bối cảnh thực hiện hoạt động, số dư hiện có của
    các NHTM là bao nhiêu so với mức cầu vốn khả dụng và nó sẽ thay đổi thế nào
    trong ngắn hạn. Tác giả đúc rút ra sự cần thiết của việc NHTƯ phải đánh giá chính
    xác bối cảnh hiện tại và có sự dự báo tốt trong tương lai. Ngoài ra, NHTƯ trong quá
    trình quản lí VKD cũng cần lưu tâm đến những thông tin liên quan đến các khoản
    mục trên BCĐ TT. Hầu hết các NHTƯ quản lí VKD đều để tránh sự thiếu hụt hay dư
    thừa VKD tác động tới hệ thống thanh toán, đến trạng thái vốn ngắn hạn hay làm tỷ
    giá biến động. Trong nghiên cứu này, Simon T Gray tập trung tới vấn đề liên quan tới
    dự báo dựa trên BCĐ tiền tệ của NHTƯ và nhấn mạnh tới việc dự báo VKD với vai
    trò là 1 khoản mục trên BCĐ của NHTƯ và được NHTƯ sử dụng để quản lí dự trữ
    của NHTM nằm tại NHTƯ, phần VKD có tính lỏng và quy ền lực cao nhất.
    Năm 2011, Simon T Gray tiếp tục có nghiên cứu về nội dung mắt xích trong
    chuỗi nghiệp vụ liên quan đến công tác quản lí VKD, đó là Số dư tại NHTƯ và Dự
    trữ bắt buộc (Central Bank Balances and Reserve Requirements). Tác giả thể hiện
    đồng nhất với nhiều quan điểm từ trước đến nay rằng hầu hết các NHTƯ trên thế
    giới đều yêu cầu TCTD thực hiện giữ dự trữ bắt buộc dưới hình th ức số dư tiền gửi
    tại NHTƯ. Tuy nhiên, vai trò của DTBB đã được thay đổi nhiều qua thời gian, kể
    cả từ lí thuyết và thực tiễn đều chỉ ra rằng cần phải xem xét kĩ càng vai trò của
    DTBB. Theo ông, ba mục đích chính cho dự trữ yêu cầu bảo đảm an toàn, tiền tệ,
    kiểm soát tiền tệ và quản lý VKD. Dự trữ bắt buộc là một phần nằm trong lượng dự
    phòng trung bình, là phần đệm hỗ trợ hiệu quả cho các ngân hàng thương mại quản
    lý thanh khoản ngắn hạn. Đặc biệt chức năng này có thể đặc biệt hữu ích khi NHTƯ
    khó dự báo chính xác tất cả các luồng trên bảng cân đối kế toán của mình. Simon T
    Gray đánh giá rất cao chức năng quản lí VKD của dự trữ bắt buộc và coi trọng tầm
    ảnh hưởng của DTBB tới hiệu quả quản lí VKD của NHTƯ. Cuối cùng, bài báo
    5
    minh họa thực tiễn hiện tại bằng cách sử dụng năm 2010 IMF khảo sát của 121
    ngân hàng trung ương.
    Mohamed Afzal Norat năm 2008 có nghiên cứu về Dự báo tiền giấy phát
    hành. Đây là công việc quan trọng trong việc đảm bảo rằng nó cung cấp cho nhu
    cầu của hệ thống ngân hàng tiền ngân hàng trung ương. Tiền giấy (hoặc tiền trong
    lưu thông) là thành ph ần lớn nhất và đối với một số NHTƯ đây là biến quan trọng
    nhất của các dự báo VKD của hệ thống NH. Dự báo chính xác nhu cầu sử dụng tiền
    giấy là điều cần thiết trong việc đảm bảo một dự báo VKD chính xác và ảnh hưởng
    tới hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Tác giả M.A. Norat đề cập các vấn đề và
    phác thảo một mô hình chuỗi thời gian để đánh giá công tác dự báo tiền giấy (tiền
    mặt trong lưu thông) của một số NHTƯ các nước, bao gồm cả NHTƯ Anh và ECB.
    Về các nghiên cứu tại Việt Nam, các đề tài nghiên cứu liên quan đến Chính
    sách tiền tệ, các công cụ của Chính sách tiền tệ, kênh truy ền tải tác động của Chính
    sách tiền tệ đã được quan tâm nghiên cứu nhiều, tuy nhiên, liên quan trực tiếp đến
    hoạt động quản lí VKD trong điều hành Chính sách tiền tệ của NHTƯ thì hiện chỉ
    có “Hoàn thiện phương pháp dự báo vốn khả dụng nhằm nâng cao năng lực điều
    tiết thị trường tiền tệ của NHNN” của PTĐ NHNN Việt Nam Nguyễn Đồng Tiến
    chủ trì hoàn thành năm 2006. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã hệ thống hoá
    một số vấn đề tổng quan mang tính chất cơ sở lý luận về quản lý và dự báo vốn khả
    dụng: Khái niệm vốn khả dụng, vai trò của dự báo vốn khả dụng, nội dung công tác
    quản lý vốn khả dụng, ; Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và phương pháp dự báo
    vốn khả dụng của một số nước trên thế giới. Có thể nói đây là nghiên cứu đầu tiên
    đề cập tới đề tài này tại Việt Nam. Ngoài ra, nhóm tác giả có sự phân tích, đánh giá
    thực tiễn công tác quản lí và dự báo vốn khả dụng của NHNN VN, đánh giá những
    mặt được và chưa được trong quá trình thực hiện quản lý, dự báo vốn khả dụng, từ
    đó đề xuất giải pháp hoàn thiện phương pháp dự báo vốn khả dụng nhằm nâng cao
    chất lượng dự báo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về hiệu quả điều hành CSTT của
    NHNN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng. Về cơ bản,
    đề tài đã giải quyết tương đối triệt để những nội dung liên quan tới mục đích của
    6
    NHNN trong việc hoàn thiện phương pháp dự báo và công tác dự báo VKD để
    hướng tới điều tiết hiệu quả TTTT của Việt Nam.
    Có thể nói, tất cả những nghiên cứu trên là nguồn kiến thức nền tảng vô cùng
    quý giá để gợi ý nghiên cứu cho Luận án. Vì vậy, trên cơ sở những nghiên cứu của
    quốc tế và Việt Nam, luận án lựa chọn tập trung vào hệ thống hóa lí luận liên quan
    tới công tác quản lí VKD của NHTƯ, đồng thời nghiên cứu việc thực hiện công tác
    này tại NHNN Việt Nam nhằm tăng cường hiệu quả điều hành CSTT.
    3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
    - Làm rõ lí luận liên quan tới công tác quản lý VKD: Khái niệm về VKD, cung
    cầu VKD, nội dung công tác quản lý VKD, phương pháp dự báo VKD Nghiên
    cứu kinh nghiệm quản lý và dự báo VKD của một số nước trên thế giới, rút ra bài
    học kinh nghiệm với Việt Nam.
    - Phân tích thực trạng công tác quản lý và dự báo VKD của NHNN VN trong
    điều hành Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.
    - Đề xuất giải pháp nhằm giải quyết những vấn đế nảy sinh trong quản lí vốn khả
    dụng của NHNN Việt Nam, hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác quản lý
    VKD nhằm góp phần nâng cao hiệu lực Chính sách tiền tệ của NHNN VN.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
    - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lí luận cơ bản về vốn khả
    dụng trên phương diện quản lí của NHTƯ, th ực trạng việc quản lí VKD để điều hành
    CSTT của NHNN VN theo phương pháp dự báo từ bảng cân đối tiền tệ của NHTƯ và
    đề xuất giải pháp quản lí VKD trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
    - Phạm vi nghiên cứu: Để nghiên cứu thực trạng của Việt Nam, luận án nghiên
    cứu trên phương diện quản lí của NHTƯ, sử dụng số liệu trên Bảng cân đối tiền tệ
    của NHNN là chủ yếu và th ực hiện phân tích trong khoảng thời gian từ năm 2000
    đến 2012.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu suy luận, phân tích hệ thống, phân
    tích đ ối chiếu, so sánh, khảo sát, thống kê, kết hợp lí luận và thực tiễn; Phân tích
    7
    định tính kết hợp định lượng về tác động của các nhân tố đến sự tăng, giảm cung
    cầu VKD, kết hợp so sánh đối chiếu với kinh nghiệm điều hành quản lý VKD của
    một số nước để tìm hướng quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
    Đồng thời, để phân tích định tính và nghiên cứu định lượng về trạng thái
    VKD và sự biến động của các nhân tố cấu thành nên Cung, Cầu VKD, Luận án sử
    dụng mô hình hồi quy đơn nhằm đo lường các quan hệ tuyến tính giữa yếu tố cấu
    thành với Cung, cầu VKD trên cơ sở số liệu từ các nguồn số liệu trong Thống kê
    tài chính quốc tế (IFS - IMF), của Ngân hàng Nhà nước và các NHTM Việt Nam.
    6. Những đóng góp chính của Luận án
    Luận án là công trình nghiên cứu khoa hoc chuyên sâu và hoàn chỉnh đầu
    tiên về Quản lí vốn khả dụng trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
    nước Việt Nam. Những đóng góp chính của Luận án bao gồm:
    - Xây dựng và tổng quát cơ sở lí luận về vốn khả dụng, dự báo và quản lí vốn
    khả dụng trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương dựa vào các
    nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn của các nhà kinh tế học trên thế giới.
    - Nghiên cứu kinh nghiệm về nội dung quản lí VKD, đặc biệt chú trọng tới
    phương pháp dự báo VKD và các biện pháp can thiệp để điều chỉnh cung cầu VKD
    để đạt được mục tiêu điều tiết thị trường của NHTƯ một số quốc gia phát triển và
    đang phát triển trên thế giới, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
    - Phân tích, đánh giá một cách hệ thống và khoa học thực trạng hoạt động
    quản lí VKD của NHNN Việt Nam th ời gian qua, tìm ra những nguy ên nhân cơ bản
    giải thích cho những hạn chế trong việc phát huy hiệu quả quản lí VKD để điều
    chỉnh trạng thái thị trường và đạt được mục tiêu điều tiết của NHNN Việt Nam.
    - Đưa ra gợi ý cho NHNN Việt Nam việc sử dụng mô hình hồi quy đánh giá
    mức độ ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành tới cung cầu VKD, từ đó tìm ra biện
    pháp phù hợp và hữu hiệu nhất để can thiệp thị trường cho phù hợp với điều kiện
    thực tiễn của Việt Nam từng thời kì.
    - Trên cơ cở kết quả nghiên cứu của mình, Luận án đưa ra hệ thống giải pháp
    đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lí VKD trong điều hành Chính sách tiền tệ
    của NHNN Việt Nam.
    8
    7. Kết cấu của Luận án
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được chia thành 3 chương:
    - Chương 1: Lí luận chung về quản lý vốn khả dụng trong điều hành
    Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
    - Chương 2: Thực trạng quản lý vốn khả dụng trong điều hành Chính
    sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
    - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý vốn khả dụng trong
    điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam


    CHƯƠNG 1
    LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÍ VỐN KHẢ DỤNG TRONG
    ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TI ỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
    1.1. KHÁI QUÁT VỀ VỐN KHẢ DỤNG VÀ QUẢN LÍ VỐN KHẢ DỤNG TRONG
    ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
    1.1.1. Vốn khả dụng
    1.1.1.1. Khái niệm
    Theo định nghĩa giản đ ơn, vốn khả dụng được hiểu là vốn có khả năng sử
    dụng. Cụ thể hơn, vốn khả dụng là nguồn vốn sẵn sàng để đáp ứng các nghĩa vụ tài
    chính như: rút tiền mặt của khách hàng, nhu cầu thanh toán, đáp ứng các cam kết
    cho vay với khách hàng, nộp thuế cho Ngân sách, trả nợ NHTƯ của TCTD.
    Dưới góc độ hệ thống ngân hàng: Vốn khả dụng là tiềm lực vốn của một tổ
    chức tài chính, là VKD nằm tại TCTD. VKD của TCTD được chia làm hai phần:
    Dự trữ bắt buộc và dự trữ dư thừa. Dự trữ dư thừa là phần dự trữ sơ cấp, có tính
    lỏng cao nhất, có thể sử dụng đáp ứng các yêu cầu về vốn của TCTD ở mọi thời
    điểm. Vì vậy, phần VKD này được dự trữ: (i) Một phần để tại TCTD dưới dạng
    Ngân quỹ, đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng, nhu cầu thanh toán, đáp
    ứng nghĩa vụ cho vay, các cam kết khác. VKD này duy trì với mục đích là đáp ứng
    nhu cầu thanh toán tức thì hay đảm bảo thanh khoản - là khả năng đáp ứng tức thời
    nhu cầu rút tiền của khách hàng tại bất cứ thời điểm nào với mức chi phí thấp nhất;
    (ii) Một phần gửi tại NHTƯ dưới dạng tiền gửi DTBB, tiền gửi thanh toán và tiền
    gửi khác.
    Trên phương diện quản lý của NHTƯ: VKD gửi tại NHTƯ – chính là số tiền
    dự trữ mà TCTD gửi vào NHTƯ của quốc gia. Nó bao g ồm: tiền gửi DTBB, tiền gửi
    thanh toán, v.v .là phần vốn các TCTD phải giữ lại theo quy định và một phần dự trữ
    dư thừa được các TCTD gửi tại NHTƯ để đáp ứng nhu cầu thanh toán qua NHTƯ.
    Phần dư thừa này có tính lỏng cao nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với phần VKD nằm
    10
    tại TCTD và nhạy cảm với sự biến động về lãi suất trên thị trường. Vì vậy quản lí
    VKD của NHTƯ chính là NHTƯ sử dụng các biện pháp can thiệp để điều chỉnh phần
    VKD này, từ đó tác động đến phần VKD nằm tại TCTD, đồng thời chi phối tới hành
    vi mua hay bán vốn trên TT LNH, tác động tới mức lãi suất LNH, từ đó thông qua cơ
    chế truyền tải lãi suất để điều chỉnh trạng thái cung cầu trên các bộ phận khác của
    TTTC và đạt mục tiêu điều hành CSTT.
    Phần VKD nằm tại NHTƯ là một thước đo về mức độ dư thừa hay thiếu hụt
    VKD của các TCTD. Mức VKD của một ngân hàng càng lớn đồng nghĩa với việc
    lượng tiền dư thừa ngân hàng có thể cung cấp trên thị trường LNH là nhiều. Thông
    qua việc rút bớt hay bơm thêm VKD, NHTƯ có thể tác động tới chênh lệch cung -cầu về dự trữ của ngân hàng, từ đó khiến ngân hàng phải điều chỉnh hành vi của mình
    trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng vì thế có thể được điều chỉnh
    theo ý c ủa NHTƯ.
    Mối quan hệ giữa phần VKD nằm tại TCTD và tại NHTƯ là vô cùng m ật
    thiết với nhau. Khi trạng thái VKD nằm tại TCTD dư thừa hay thiếu hụt sẽ tác động
    nhanh chóng tới trạng thái VKD của TCTD đó tại NHTƯ và ngược lại. Cụ thể hơn,
    khi VKD tại quỹ dư thừa so với nhu cầu sử dụng vốn, nếu để tiếp tục tại quỹ, TCTD
    sẽ bị mất chi phí cơ hội, vì vậy, phần dư thừa này được đẩy lên thành số dư tiền gửi
    tại NHTƯ, làm cung VKD tại NHTƯ tăng lên và TCTD có thể sử dụng giao dịch
    trên TTLNH nhằm giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền thông qua việc bán vốn tại
    mức lãi suất mong muốn. Ngược lại, khi trạng thái này thiếu hụt, TCTD thực hiện:
    hoặc rút tiền từ NHTƯ lập tức hay vay trên TTLNH và làm số dư VKD tại NHTƯ
    biến đổi. Ngược lại, để thực hiện CSTT, NHTƯ có thể tiến hành chủ động điều chỉnh
    trạng thái VKD thông qua bơm hay hút VKD trên TTLNH, dẫn đến số dư VKD trên
    tài khoản tiền gửi tăng lên hay giảm xuống, làm thay đổi trạng thái vốn của các
    TCTD tham gia giao dịch trên thị trường theo hướng thặng dư hay thâm hụt và các
    TCTD đó sẽ điều chỉnh lượng vốn cung cho nền kinh tế của mình, tác động tới mức
    lãi suất cho vay, từ đó tác động sâu rộng tới các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế.
    Dù được hiểu trên phương diện hệ thống TCTD hay từ phương diện quản lí thì
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...