Thạc Sĩ Quản lí việc dạy chữ Chăm cho người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Quản lí việc dạy chữ Chăm cho người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận​
    Information
    MS:LVQLGD002
    SỐ TRANG: 115
    TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
    CHUYÊN NGÀNH:QUẢN LÝ GIÁO DỤC
    NĂM: 2007




    Information


    MỞ ĐẦU

    1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

    Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 thành phần dân tộc khác
    nhau. Dân tộc Chăm là một dân tộc thiểu số thuộc cộng đồng các dân tộc Việt
    Nam, hiện sinh sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam, tập trung
    nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Chữ Chăm đã có từ lâu
    đời, đồng bào Chăm truyền tụng và nâng niu, song ít được phổ biến rộng rãi
    trong các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu dành cho lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
    giáo nhằm nghiên cứu nghi thức hành lễ; hoặc chỉ có một bộ phận người
    Chăm dùng để tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm. Với chủ trương
    của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và chữ viết của các dân tộc thiểu
    số, các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên cho
    đến những văn kiện gần đây đều thống nhất một quan điểm: Tôn trọng quyền
    tồn tại và phát triển của tiếng nói và chữ viết các dân tộc thiểu số đồng thời hỗ
    trợ để tiếng nói và chữ viết của họ phát triển.
    Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1960 có ghi: "Các
    dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình".
    Quyết định của Chính phủ số 53/CP ngày 22/02/1980 có đoạn viết:
    "Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn
    trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều
    được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo chữ La tinh"[10].
    Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, tại điều 4 có viết: “Giáo dục
    tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử
    dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện
    Giáo dục tiểu học[21].

    Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết:
    "Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
    tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền
    dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục,
    tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình".
    Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển tiếng nói
    và chữ viết của các dân tộc thiểu số, cụ thể hơn là tiếng nói và chữ viết của
    dân tộc Chăm, một số trường tiểu học vùng đồng bào dân tộc Chăm ở huyện
    Hàm Thuận Bắc đã tiến hành việc dạy tiếng Chăm cho học sinh người Chăm.
    Song, nhu cầu học chữ Chăm không chỉ giới hạn ở học sinh tiểu học, mà
    nhiều người dân Chăm, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên mong muốn được
    học cái chữ của dân tộc mình. Đây là nguyện vọng chính đáng nhằm góp phần
    nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong cộng đồng
    các dân tộc Việt Nam, phản ánh tính đúng đắn về chính sách dân tộc của
    Đảng và Nhà nước ta.
    Là một ngôn ngữ của dân tộc thiểu số có dân số ở mức trung bình trong
    tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, tiếng Chăm cùng với nền văn hoá Chăm có
    vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành và xây dựng nền văn hoá
    Việt Nam và được coi là một môn học trong hệ thống giáo dục tiểu học đối
    với học sinh Chăm. Việc phát sóng bằng tiếng Chăm và đưa tiếng Chăm vào
    dạy học trong nhà trường đã được bà con dân tộc Chăm phấn khởi đón nhận.
    Tiếng Chăm hiện nay là một trong những tiếng dân tộc được phát sóng trên
    các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
    Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bình Thuận, Đài
    Phát thanh - Truyền hình tỉnh Ninh Thuận và tập san Dân tộc và Miền núi do
    Thông tấn xã Việt Nam xuất bản bằng tiếng Chăm đã mang đến cho đồng bào
    người Chăm nhiều thông tin quí giá[34]. Song, để tiếp nhận đầy đủ lượng
    thông tin trên, người dân Chăm càng phải cần có vốn hiểu biết chữ Chăm làm
    công cụ truyền tải.
    Hiện nay tiếng Chăm có các biến thể khác nhau và các loại hình chữ
    viết khác nhau, đó là tiếng Chăm gốc và tiếng Chăm biến thể. Trong giao tiếp
    hàng ngày, người Chăm sử dụng tiếng Chăm biến thể, trong khi đó trên 60%
    người Chăm (đặc biệt là người ở lứa tuổi dưới 50) nghe không hiểu, hoặc hiểu
    rất ít tiếng Chăm cổ đang dùng phát sóng trên các phương tiện phát thanh-
    truyền hình[34]. Như vậy, thực tế phần lớn người Chăm chưa hiểu rõ các nội
    dung bài báo được đăng tải trên các tạp chí bằng chữ Chăm hay trên sóng
    phát thanh tiếng Chăm, vì một lẽ dễ hiểu là đa số người dân Chăm còn mù
    chữ Chăm. Vì mù chữ Chăm và do thường ngày chỉ dùng tiếng địa phương có
    nhiều lỗi chính tả, hoặc không còn nhớ từ vựng của tiếng mẹ đẻ mà được thay
    thế vào đó bằng nhiều từ tiếng Việt, tiếng nước ngoài, cho nên đa số người
    Chăm chưa thể đọc được chữ Chăm trên mặt báo hay chưa nghe và hiểu hết
    tiếng Chăm chuẩn được phát thanh trên sóng của đài phát thanh. Điều đó,
    chứng tỏ tiếng nói và chữ viết của người Chăm ngày càng mai một, nếu
    không có sự bảo tồn kịp thời và đúng mức thì ngôn ngữ Chăm sẽ dần dần bị
    mất hết vai trò của mình trong đời sống xã hội người Chăm. Trong khi đó
    tiếng Chăm dạy cho học sinh trong nhà trường tiểu học chưa đủ lực để giữ vai
    trò bảo tồn, phát triển tiếng nói và chữ viết Chăm. Một trong các giải pháp để
    giúp cho các em khỏi quên chữ Chăm sau khi học tiểu học và cũng làm cho
    người lớn biết chữ Chăm là phải tiến hành mở các lớp dạy chữ Chăm cho
    người lớn (độ tuổi 15 - 45). Thế nhưng đến nay tại tỉnh Bình Thuận, chính
    quyền tỉnh Bình Thuận chưa tổ chức việc dạy chữ Chăm cho người Chăm hết
    độ tuổi học ở trường tiểu học.
    Đề tài nghiên cứu “việc quản lý dạy chữ Chăm cho đồng bào dân tộc
    Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận” nhằm đáp ứng tâm tư,

    nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc Chăm, làm cho người dân
    Chăm biết được chữ Chăm, từ đó sẽ thu nhận nhiều thông tin hữu ích trong
    cuộc sống, tìm hiểu phong tục tập quán của đồng bào Chăm qua các tài liệu
    cổ, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản
    sắc văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm,
    tạo nên sự đoàn kết và thể hiện sự bình đẳng dân tộc giữa cộng đồng các dân
    tộc ở Việt Nam.

    2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

    Khảo sát nhu cầu học chữ Chăm của người Chăm và tìm hiểu việc tổ
    chức dạy chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Từ đó, đề
    xuất một số giải pháp thực hiện việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm.
    3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

    3.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm
    ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

    3.2. Khách thể nghiên cứu : Người Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45, các trí
    thức và các giáo viên người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

    4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

    Nếu tiến hành quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm thì sẽ tạo
    điều kiện tốt cho người Chăm trong độ tuổi 15 - 45 tham gia học chữ Chăm, ít
    nhất ở mức biết đọc và biết viết.

    5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

    Đề tài nghiên cứu việc quản lí dạy chữ Chăm cổ cho người học chữ
    Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45 trên địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
    Thuận.

    6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

    6.1. Hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.

    6.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu học chữ Chăm và việc tổ chức dạy chữ
    Chăm cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
    Thuận.

    6.3. Đề xuất và thử nghiệm một số giải pháp quản lý việc dạy chữ Chăm
    cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

    7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

    Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản qui phạm pháp luật của chính
    phủ, các cấp quản lý giáo dục và các tác giả nói về việc dạy tiếng dân tộc
    thiểu số. Nghiên cứu các báo cáo của UBND huyện Hàm Thuận Bắc về tình
    hình kinh tế - xã hội của huyện; nghiên cứu các tài liệu nói về người Chăm,
    ngôn ngữ Chăm.
    7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
    Điều tra khoảng 300 người dân Chăm có độ tuổi từ 15 - 45, thuộc 3 xã
    của huyện Hàm Thuận Bắc có đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống nhằm
    tìm hiểu thực trạng học chữ Chăm (Trình độ chữ Chăm, nhu cầu, mục đích
    học chữ Chăm). Xác định mức độ và tần số về nhu cầu học tiếng Chăm, hình
    thức tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tuổi.
    Điều tra (phỏng vấn bằng phiếu) 50 người, gồm một số chức sắc tôn
    giáo, lão làng, trưởng thôn, trí thức và giáo viên người Chăm nhằm khẳng
    định nhu cầu, mục đích và những đề xuất khác của việc học chữ Chăm.
    Điều tra hiệu trưởng ở các trường Tiểu học có dạy tiếng Chăm, các giáo
    viên người Chăm và một số cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo
    nhằm góp ý, bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp quản lý dạy tiếng Chăm.



    7.3. Phương pháp thử nghiệm

    Trình lên Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận xin phép tổ chức mở lớp
    dạy (thử nghiệm) 3 lớp học tiếng Chăm cho người lớn tuổi , mỗi xã một lớp,
    nhằm rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy tiếng Chăm và công tác quản lý
    việc giảng dạy tiếng Chăm cho người lớn tuổi, tạo khí thế ban đầu cho phong
    trào học tiếng Chăm trong huyện.
    7.4. Phương pháp toán học thống kê
    Dùng để xử lí kết quả nghiên cứu. Sử dụng bảng thống kê để tính tần
    số, tỉ lệ phần trăm về: Trình độ chữ Chăm; nhu cầu, mục đích và hình thức
    học tập chữ Chăm.

    8. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU

    8.1. Nghiên cứu lí luận

    * Nghiên cứu về tính hợp pháp, sự cần thiết và ý nghĩa của việc quản lý
    các lớp học chữ Chăm cho người Chăm (Từ tháng 6/2006 đến tháng 7/2006).
    * Nghiên cứu khái niệm công cụ (Từ tháng 7/2006 đến tháng 8/2006).

    8.2. Nghiên cứu thực trạng

    * Tìm hiểu khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội,
    giáo dục và người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 8/2006).
    * Khảo sát thực trạng biết chữ Chăm, nhu cầu và mục đích học chữ
    Chăm của người Chăm ở độ tuổi 15 - 45 qua khoảng 300 phiếu điều tra
    (tháng 8/2006).
    * Khảo sát khoảng 50 phiếu phỏng vấn, tìm hiểu nguyện vọng của các
    già làng, các chức sắc tôn giáo, các trí thức trong cộng đồng người Chăm về ý
    nghĩa và sự cần thiết của việc tổ chức học chữ Chăm cho người Chăm (tháng
    8/2006).
    * Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên dạy tiếng Chăm ở huyện
    Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).

    * Khảo sát thực trạng về công tác quản lý việc dạy chữ Chăm cho
    người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
    * Xử lý số liệu điều tra (tháng 10/2006 - 12/2006).
    * Tổng hợp số liệu, các tư liệu và viết báo cáo kết quả nghiên cứu
    (tháng 01/2007 - 8/2007)
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...