Luận Văn Quan hệ Việt Nam - Vương Quốc Anh (1973 - 2004) (Vietnamland)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD="class: rows1, bgcolor: #DEE4FE, align: left"]Quan hệ Việt Nam - Vương Quốc Anh (1973 - 2004) (Vietnamland)
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]






    1. Lý do chọn đề tài

    MỞ ĐẦU



    Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế, dù ở trình độ nào, đều phải tiến đến nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau.
    Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay chứa đựng những yếu tố phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng của thế giới.
    Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối đối ngoại của nước ta là: “Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [56, tr.38].
    Việc cải thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các trung tâm chính trị - kinh tế hàng đầu của thế giới trở thành một đòi hỏi tất yếu và cấp bách của hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nó cho phép đồng thời phát triển quan hệ với các đối tác có thực lực và tiềm năng lớn trên nhiều lĩnh vực, từ đây có thể tranh thủ thu hút vốn đầu tư, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài đã nhiều năm của Việt Nam, phá thế bị bao vây cấm vận, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.




    Đường lối ngoại giao nhất quán đó không chỉ được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng trong quan hệ với các nước trong khu vực mà còn vận dụng trong quan hệ với các nước phát triển thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU), trong đó có Vương quốc Anh. Vương quốc Anh có một vai trò đặc biệt trong EU. Từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Vương quốc Anh đã có những thay đổi đối với Châu Âu. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt của Vương quốc Anh thể hiện ở Hội nghị thương đỉnh Anh – Pháp ở Saint Malo (12/1998), hai nước đã đưa ra sáng kiến thành lập lực lượng quân sự riêng của Châu Âu. Sáng kiến này đã trở thành tiền đề cho việc hình thành chính sách an ninh và phòng thủ chung của EU.
    Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, trước xu thế phát triển của thế giới lấy kinh tế làm trung tâm và xu thế toàn cầu hoá, EU nói chung và Vương quốc Anh nói riêng bắt đầu nhận thấy khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có một tiềm năng hợp tác to lớn trong nhiều lĩnh vực. Trong tầm nhìn của mình, Vương quốc Anh xem Việt Nam là một thị trường mới mẻ đầy hấp dẫn với dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có học thức, đất nước lại đang chuyển mình trong quá trình cải cách mở cửa, hội nhập . Rõ ràng đối với Vương quốc Anh, đây là một thị trường đầu tư, một địa chỉ hợp tác đầy hứa hẹn. Với sự hiểu biết đó, Vương quốc Anh đã cùng với Việt Nam có những bước đi chắc chắn trong quá trình hợp tác.
    Về phía Việt Nam, đối với Vương quốc Anh, Việt Nam luôn coi trọng quan hệ toàn diện với Vương quốc Anh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, lẫn văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo và khoa học kỹ thuật, để có nhiều điều kiện trong việc tranh thủ nguồn vốn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của Vương quốc Anh. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn nhằm khắc phục khó khăn, từng bước gạt bỏ mọi trở ngại để cho mối quan hệ giữa hai bên ngày càng có hiệu quả cao.




    Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với Vương quốc Anh không chỉ mang ý nghĩa khoa học, mà còn đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác đối ngoại của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho phép chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm, thấy được những khó khăn vướng mắc trong quá khứ, để có những chủ trương chính sách đúng và có giải pháp phù hợp nhằm phát huy thành tựu, thúc đẩy quan hệ hợp tác có hiệu quả lớn trong hiện tại và tương lai.
    Từ trước tới nay, việc nghiên cứu mối quan hệ này của các nhà nghiên cứu Lịch sử Việt Nam hầu như chưa có. Nhu cầu phát triển đất nước đặt ra nhiệm vụ cần phải tiếp cận các vấn đề liên quan đến quá trình hội nhập quốc tế và khu vực mang tính lợi ích của Việt Nam một cách khách quan, tổng quát trên những cơ sở khoa học thực sự, góp phần làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách, tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh ngày càng phát triển.
    Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, cùng với việc hơn 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1973 – 2004)” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu này. Trong bước chuyển giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những chuyển biến mới, đòi hỏi hai nước cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giao lưu hữu nghị, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
    2. Lịch sử vấn đề

    Theo hiểu biết của chúng tôi, đến nay hầu như chưa có công trình nào của các nhà khoa học nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam với Vương quốc Anh, nhưng đã có một số sách xuất bản đề cập đến vấn đề quan hệ Việt Nam




    – Vương quốc Anh trên lĩnh vực kinh tế được lồng ghép trong mối quan hệ

    chung của khu vực EU và thế giới.

    Ở trong nước, có một số công trình tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu” của tác giả Trần Thị Kim Dung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; “Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI” của Bùi Huy Khoát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt Nam – Liên hiệp Châu Âu (1990 – 2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại học Sư phạm, TP Hồ Chí Minh, 2006; “Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” của tác giả Nguyễn Dy Niên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” của PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, TS Nguyễn Văn Du, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006; “Các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NXB Thông tấn; “Quan hệ EU – ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng” của Bùi Huy Khoát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “ASEM V – cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập Á – Âu” của Hoàng Lan Hoa, NXB Lý luận chính trị; “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút FDI ở Việt Nam” của Mai Ngọc Cường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Hợp tác Á – Âu và vai trò của Việt Nam” của Nguyễn Duy Quý, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; “Hợp tác ASEAN – EU: Tình hình và triển vọng. ASEAN những vấn đề và xu hướng” của Nguyễn Thu Mỹ, NXB Khoa học xã hội, 1997; “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Thế giới sau chiến tranh lạnh và Châu Á – Thái Bình Dương trong
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...