Đồ Án Quan hệ thấm – chứa trong trầm tích vụn và khả năng áp dụng khi nghiên cứu một số vỉa chứa ở Việt Na

Thảo luận trong 'Địa Lý' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÓM TẮT
    Độ rỗng, độ thấm, độ bão hòa và độ sét là những tham số vật lý quan trọng nhất khi nghiên cứu bất kỳ một vỉa chứa dầu hay chứa khí nào. Trong đó, độ rỗng và độ thấm luôn có những mối quan hệ nhất định tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Có rất nhiều yếu tố chi phối đến mối quan hệ này, kể cả là nguyên nhân bên trong do thành phần, kích thước, hình dạng các hạt vụn trầm tích và nguyên nhân bên ngoài do các hoạt động địa chất diễn ra sau khi các hạt trầm tích này được lắng đọng. Tất cả những nguyên nhân trên đều có những ảnh hưởng nhất định đến giá trị độ rỗng – độ thấm và do đó để có thể nghiên cứu được khả năng chứa của vỉa sản phẩm chúng ta cần nghiên cứu những nguyên nhân đã chi phối đến mối quan hệ này.
    Mối quan hệ độ rỗng – độ thấm ( – K) luôn có những biến đổi phức tạp theo nhiều xu hướng khác nhau tùy thuộc vào điều kiện lắng đọng trầm tích ban đầu và sự biến đổi thứ sinh sau quá trình thành đá. Để nghiên cứu được mối quan hệ này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng số liệu thực nghiệm từ những vỉa chứa dầu khí điển hình trên Thế giới. Sau đó, xây dựng nên những mối quan hệ  – K theo từng tiêu chí nhất định. Từ những quan hệ  – K vừa xây dựng được, nhóm nghiên cứu đưa ra một vài kiến nghị để áp dụng quan hệ này khi nghiên cứu các vỉa chứa vụn Miocene và Oligocene trong điều kiện của Việt Nam.
    1. GIỚI THIỆU CHUNG
    Quan hệ độ rỗng – độ thấm ( – K)


    2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


    3. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
    Xây dựng mối quan hệ thấm – chứa từ các số liệu thực nghiệm đối với các vỉa chứa dầu khí điển hình trên Thế giới.
    3.1. Vỉa chứa Oligocene-Miocene tại mỏ khí Yacheng Trung Quốc
    3.1.1. Đặc điểm về môi trường thành tạo và quá trình biến đổi thứ sinh.
    Môi trường cổ thay đổi từ các lớp đất đá phủ bở rời nằm trên đá gốc và bên cạnh đó là các lớp trầm tích quạt delta được thành tạo trong môi trường đầm hồ rồi tiếp đến là các thành tạo thuộc biển: thủy triều ảnh hưởng đến các quá trình lắng đọng của quạt delta và cửa sông, cuối cùng là các thành tạo ven biển và ngoài khơi.
    Thành phần thạch học từ cát kết arkoses đến feldspathic, có độ hạt từ mịn đến trung bình và thô. Quá trình biến đổi thứ sinh chủ yếu là sự hòa tan, rửa lũa của các khoáng vật feldspar kali.
    3.1.2. Xây dựng quan hệ thấm – chứa theo thành phần độ hạt và điều kiện môi trường thành tạo.
    Mối quan hệ độ rỗng – độ thấm theo thành phần độ hạt đối với vỉa chứa Oligocene-Miocene, tại mỏ khí Yacheng được xây dựng như sau (Hình 01):
    Theo đồ thị này ta thấy các mẫu nghiên cứu tại vỉa chứa này có độ hạt phổ biến từ 0.7–1.0mm còn các mẫu khác (có độ hạt nhỏ hơn hoặc lớn hơn) thì sự phân bố của chúng ít hơn, đặc biệt là mẫu có độ hạt mịn (<0.5mm) chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Điều đó chứng tỏ rằng thành phần độ hạt tại vỉa chứa này chủ yếu là cát kết hạt thô (theo như phân loại của Pettijohn và nhiều tác giả khác, 1973) . Ta cũng thấy rằng đường xu thế (trend line) của các mẫu có độ hạt từ trung bình trở lên (>0.5mm) có giá trị độ thấm và độ rỗng tương đối cao:  = 10 ư 20% và K=20ư1000mD. Còn đối với các mẫu có kích thước độ hạt nhỏ hơn 0.5mm có độ tập trung của chúng thấp và có giá trị độ rỗng và thấm không cao. Như vậy, quan hệ rỗng – thấm theo thành phần độ hạt của các mẫu nghiên cứu tại vỉa chứa này nhìn chung là khá tốt, độ rỗng cao và độ thấm cũng cao.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...