Tiểu Luận Quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong bộ luật Hồng Đức

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 2/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phần mở đầu

    Gia đình Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là nền tảng của xã hội, trong các bộ luật đầu tiên của ta như bộ luật Hồng Đức đời nhà Lê, bộ luật Gia Long đời nhà Nguyễn đã có nhiều điều khoản qui định về các quan hệ trong gia đình, quan hệ giữa vợ chồng với nhau, quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Gia đình cũng đặt ra những quan hệ về tài sản, đặc biệt là quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Quan hệ đó gồm một số nguyên tắc qui định quyền hạn của hai vợ chồng trên các tài sản chung, sự đóng góp tiền bạc của hai vợ chồng trong thời gian hôn nhân. Sự qui định về quan hệ tài sản giữa vợ chồng là một điều cần thiết để bảo vệ quyền lợi của gia đình, tránh những tranh chấp có thể xảy ra làm tổn thương đến hoà khí và sự đoàn kết trong gia đình.
    Quan hệ sở hữu này tồn tại ở hai hình thức: sở hữu tài sản chung và sở hữu tài sản riêng. Trong chế độ sở hữu tài sản chung, một phần hoặc toàn thể tài sản của hai vợ chồng hợp thành một khối chung, khối tài sản này bao gồm mọi tài sản hiện hữu và tương lai của hai vợ chồng có trước và trong thời gian hôn nhân. Trong chế độ này, vợ và chồng có thể qui định quyền hạn của mỗi người trong việc quản lý khối tài sản. Họ có thể thoả thuận với nhau người chồng một mình quản lý hoặc hai vợ chồng đều có quyền quản lý chung. Hình thức thứ hai là sở hữu tài sản riêng. Đó là chế độ đơn giản nhất vì mỗi vợ chồng vẫn giữ nguyên quyền sở hữu đối với tài sản của mình, họ chỉ phải cùng nhau đóng góp vào các chi tiêu chung của gia đình.
    Quan hệ vợ chồng dù ở thời kỳ nào, từ phong kiến, thực dân đến XHCN vẫn là các quan hệ nền tảng của xã hội. Nó được điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật do Nhà nước công nhận, đặt ra và đảm bảo bằng sức mạnh của Nhà nước. Mà trong quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt, không một gia đình nào lại không có yếu tố tài sản. Dù nghèo hay giầu quan hệ tài sản cũng góp phần chi phối quan hệ vợ chồng, vì vậy quan hệ tài sản giữa vợ chồng là quan hệ không thể thiếu được trong sự điều chỉnh của pháp luật.
    Nhìn chung, qua các thời kì lịch sử, hai hình thức này đã được qui định và điều chỉnh trong các bộ luật. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn, nó được chính thức công nhận trong điều luật.
    Trong bài viết này, em xin phép viết về quan hệ tài sản giữa vợ chồng, song đây là quan hệ có phạm vi rộng: gồm quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế, quan hệ cấp dưỡng, vì thời gian có hạn em chỉ đề cập đến quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ chồng. Rất mong sự chỉ bảo của các thầy cô.








    Phần nội dung
    Chương Iquan hệ tài sản giữa vợ chồng trong bộ luật Hồng Đức
    trong bé luËt Hång §øc
    Bộ luật Hồng Đức đời nhà Lê được coi là một bộ luật tiến bộ trong thời kỳ phong kiến, đặc biệt là những quy định về quan hệ vợ chồng. Bộ luật này tuy không có điều khoản nào rõ rệt nói về chế độ tài sản nhưng nó công nhận khối tài sản trong gia đình gồm tài sản của vợ (thê điền sản) và tài sản của chồng(phu điền sản). Người chồng đứng ra quản trị của cải của người vợ. Song người vợ được công nhận là có tài sản riêng, nhất là khi số tài sản đó là của được cho hoặc thừa kế.
    Quan hệ tài sản giữa vợ chồng được quy định trong từng trường hợp cụ thể. Điều 375 luật Hồng Đức quy định vợ chồng không có con mà người vợ tái giá thì của chung của hai vợ chồng được đem chia đôi, vợ được nhận một phần làm của riêng. Điều 376 định rằng trong trường hợp hai vợ chồng có con chung, nhưng côn đã chết, và vợ lại chết trước chồng, thì của riêng của vợ (thê điền sản) được đem chia làm ba phần. Ngoài ra, điều 374 cũng nói đến của riêng của chồng(phu điền sản).
    Như vậy, tục lệ của ta được phản ánh rõ rệt trong bộ luật Hồng Đức đã phân biệt rõ ràng giữa tài sản riêng của vợ và tài sản riêng của chồng. Các tài sản Êy chỉ được tạm thời nhập chung trong thời gian hôn nhân. Có thể nói những quy định trong bộ Luật Hồng Đức người phụ nữ đã đạt được những vị trí nhất định trong gia đình. Dù toàn bộ tài sản chung trong gia đình hay tài sản riêng của từng người đều do người chồng quản lý, song đã có sự tách bạch tài sản riêng. Người vợ đã được công nhận là có quyền có tài sản riêng. Đây là sự công nhận mang tính pháp lý vô cùng quan trọng về sau. Nó ảnh hưởng đến cả mối quan hệ sau này của người phụ nữ. Đó là khi người chồng, người con - người trụ cột trong gia đình chết đi thì người phụ nữ vẫn có một phần tài sản riêng của mình.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...