Tiến Sĩ Quan hệ Liên bang Nga - Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1992-2008

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 22/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài:
    Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, trục vận động chính của quan hệ quốc tế là xoay quanh việc hình thành của một trật tự thế giới mới, trong đó các nước lớn có vai trò là "diễn viên chính" trên sân khấu chính trị thế giới. Trong số các nước lớn, Mỹ muốn đơn cực hoá thế giới, còn các nước lớn hoặc các nhóm nước khác như Nga, Trung Quốc, Tây Âu lại muốn đưa thế giới phát triển theo hướng đa cực. Chính những mâu thuẫn về mục tiêu chiến lược này đã dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc, nhưng cũng đồng thời đặt ra yêu cầu cho các nước là phải đẩy mạnh hợp tác, tạo môi trường thuận lợi cho quan hệ Nga - Trung phát triển.
    Với vị trí là cường quốc mạnh nhất sau sự tan rã của Liên Xô, một mặt Mỹ tăng cường khuyếch trương cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để chi phối thế giới trên mọi lĩnh vực, một mặt Mỹ tranh thủ tăng cường hợp tác với các nước đồng minh để có thêm sức mạnh, mặt khác, Mỹ ra sức kiềm chế, ngăn chặn sự phát triển của các nước lớn khác, trong đó Mỹ chú trọng hơn cả đến Nga và Trung Quốc, vì Trung Quốc là một "đối thủ tiềm tàng" còn Nga vẫn là một ẩn số vì trong lòng quốc gia này vẫn chứa đựng những sức mạnh buộc Mỹ phải hết sức thận trọng. Nhân tố Mỹ đã tạo nên một động lực quan trọng, đẩy Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.
    Trong Chiến tranh lạnh, Liên Xô/ Nga và Trung Quốc đã từng là đồng minh chiến lược, đã từng mâu thuẫn, xung đột, nhưng khi Chiến tranh lạnh qua đi, dư âm của sự đối đầu hai cực không còn nữa, tư duy mới trong quan hệ quốc tế và xu thế toàn cầu hoá ngày càng phát triển sâu rộng, nhu cầu hoà bình, hợp tác để phát triển được đặt lên trên hết cũng là lúc quan hệ giữa Nga và Trung Quốc được thúc đẩy bằng những yếu tố ràng buộc tự nhiên của năng lượng, vũ khí Với đầy đủ cơ sở khách quan và chủ quan thuận lợi, Nga và Trung Quốc đã gặp nhau ở tư duy chiến lược cũng như mục đích hành động. Những nhân tố thuận lợi này đã thúc đẩy quan hệ Nga - Trung từ 1992 đến 2008 không ngừng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu: từ quan hệ "Đối tác xây dựng" đến quan hệ "Đối tác chiến lược".
    Quan hệ Nga - Trung từ sau Chiến tranh lạnh đến nay là một mối quan hệ đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó không chỉ ở hình thức hợp tác giữa hai cường quốc láng giềng có sự khác biệt về ý thức hệ , mà nó được quyết định bởi vai trò và tác động của mối quan hệ này với quá trình vận động và hình thành của trật tự thế giới mới. Vì vậy, mối quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung đã được xác lập và phát triển như thế nào, liệu nó có khẳng định được vai trò của mình - là những diễn viên chính - trên sân khấu chính trị thế giới hay không đang trở thành tâm điểm chú ý của các nhà nghiên cứu trên thế giới.
    Đối với Việt Nam, những biến động của quan hệ Xô - Trung trong lịch sử đã từng có những ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng Việt Nam. Ngày nay, cả Nga và Trung Quốc đều là những đối tác quan trọng của nước ta, vì vậy việc nghiên cứu về quan hệ Nga - Trung trong giai đoạn hiện nay đang được đặt ra như một nhu cầu cấp thiết đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam bởi nó có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
    Từ những ý nghĩa nêu trên, chúng tôi đã quyết định chọn “Quan hệ Liên bang Nga - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1992 - 2008)" làm đề tài nghiên cứu luận án của mình với hy vọng góp phần giải đáp những vấn đề đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu.
    2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
    Quan hệ Nga - Trung đã từng trải qua một chặng đường dài với đầy những thăng trầm thiên biến. Trong Chiến tranh lạnh, Liên Xô đã là đối trọng của Mỹ, luôn giữ được thế cân bằng của thế giới lưỡng cực. Chiến tranh lạnh qua đi, Liên Xô/ Nga tuy có trải qua những biến cố lịch sử nhưng nước Nga mới cũng đã nhanh chóng phát triển vươn lên và dẫu chưa lấy lại được vị trí cân bằng với Mỹ, song nước Nga vẫn chứa đựng trong lòng nó những sức mạnh tiềm ẩn của một cường quốc. Về phía, Trung Quốc - một quốc gia có diện tích bằng 1/4 châu Á và dân số chiếm 1/4 thế giới - từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đã phát triển mạnh mẽ với những bước tiến ngoạn mục của một "người khổng lồ thức dậy". Vị thế mới của Nga và Trung Quốc vốn đã làm cho Mỹ quan ngại, nay tiềm năng hợp tác của Nga và Trung Quốc vì một thế giới đa cực càng thực sự trở thành thách thức với khát vọng đơn cực hoá thế giới của Mỹ. Chính vì vậy, sự phát triển của mối quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung trong những năm qua đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các cơ quan nghiên cứu chiến lược của thế giới.
    Việc nghiên cứu của các học giả nước ngoài
    Ở Nga: các nhà nghiên cứu Nga luôn coi vấn đề quan hệ với các nước lớn nói chung và với Trung Quốc nói riêng là một nội dung nghiên cứu mang tính thời sự. Các nhà nghiên cứu của Trung tâm phân tích thông tin thuộc trường Đại học Quốc gia Matxcơva (Moscow state University) đã khẳng định rằng mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc từ năm 1992 đến nay đã phát triển qua 3 nấc thang "từ bình thường hoá quan hệ hai nước đến xây dựng mối quan hệ hợp tác tin cậy đến quan hệ đối tác chiến lược"[308,95]. Họ khẳng định rằng quan hệ Nga - Trung là một mối quan hệ song phương kiểu mới.
    Các nhà lãnh đạo cấp cao của Nga từ B.Yeltsin, V.Putin đến Medvedev đều khẳng định quan hệ Nga - Trung là quan hệ đối tác chiến lược và tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của nó. Trong bài trả lời phỏng vấn phóng viên tờ Nhân dân Nhật báo - Jiang Yaping - ngày 27/2/2009, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nga Igov Ivanov đã khẳng định "Trong những năm gần đây, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã đạt đến một mức độ chất lượng mới của quan hệ đối tác chiến lược"[164,3]. Chủ tịch Uỷ ban về ngoại giao của Hội đồng Liên bang Nga Mikhail V. Margelov cũng đã công bố bài nghiên cứu của mình với tiêu đề "Quan hệ Nga - Trung: tầm cao mới của sự phát triển?" (Российско-китайские отношения: на высшей точке развития?) trong đó nêu rõ những cơ sở, những động lực thúc đẩy quan hệ Nga - Trung phát triển, những bước phát triển của quan hệ hai nước và khẳng định "đến nay, quan hệ Nga - Trung đã đạt đến điểm cao nhất của sự phát triển trong 40 năm qua. Có đánh giá quan hệ Nga - Trung trong tổng thể của các mối quan hệ như: quan hệ tam giác chiến lược Nga - Trung - Mỹ ; quan hệ Nga - Trung - Nhật Bản - Ấn Độ mới thấy rõ được sự phát triển rất đặc biệt của quan hệ Nga - Trung" [255, 45].
    Trung tâm nghiên cứu về quan hệ Nga - Trung Quốc thuộc Viện Viễn Đông Nga ( Институт Дальнего Востока - Russia-China Center (RCC) đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ Nga - Trung trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, năng lượng Những quan điểm đánh giá tổng thể về quan hệ Nga - Trung của tổ chức này được thể hiện rõ nhất trong báo cáo "Quan hệ giữa Nga và Trung Quốc: Xu hướng, động lực, triển vọng" của VV. Myasnikov (В.В.Мясников, Взаимоотношения России с Китаем: тенденции, динамика, перспективы). Theo tài liệu này thì "Quan hệ Nga - Trung đang là quan hệ của hai cường quốc thế giới tuyệt vời, do chịu ảnh hưởng trực tiếp và liên tục của xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá nên đã tạo sức bật thế kỷ cho quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung. Quan hệ này có thể làm thay đổi mô hình thế giới"[284,4].
    Viện sĩ M.L. Titarenko (Титаренко М.Л) - một chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc của Nga đã có nhiều công trình nghiên cứu về Trung Quốc và quan hệ Nga - Trung, nổi bật nhất trong những năm gần đây là công trình nghiên cứu mang tên "Trung Quốc - Nga 2050: Chiến lược cùng phát triển" (Китай-Россия 2050: стратегия соразвития) được xuất bản năm 2006. Với độ dày hơn 600 trang, tác phẩm này là một công trình nghiên cứu toàn diện về Trung Quốc mang tính thông sử, có một cái nhìn tổng thể về sức mạnh của Trung Quốc, trên cơ sở đó tác giả phân tích chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nội dung chính của công trình này không phải là sự phát triển của quan hệ Nga - Trung, nhưng tác giả đã có những phần phân tích về mối quan hệ này trên lĩnh vực kinh tế và hợp tác khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, trên nền tảng đánh giá sâu sắc về những chính sách, sự phát triển và tiềm năng phát triển của Trung Quốc, tác giả đã đưa ra những dự báo về chiến lược phát triển của Trung Quốc trong tương lai và xu thế phát triển của quan hệ giữa Trung Quốc với Nga cho tới năm 2050.
    Đặc biệt, năm 2009 vừa qua, nhân kỷ niệm 60 năm quan hệ Nga – Trung, Viện Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga đã có nhiều chương trình hội thảo và nhiều công trình nghiên cứu về Nga, Trung Quốc cũng như mối quan hệ của hai nước. Hội thảo với nội dung “60 năm nước CHND Trung Hoa: Những thành quả và xu hướng” ngày 30/6/2009 tại Viện Viễn Đông Nga đã có sự tham gia của nhiều nhà khoa học đầu ngành của Nga như Viện sĩ M.L. Titarenko, GS.PTS. I.A. Đubinhin (Đại học Quan hệ quốc tế Matxcơva), PTS.A.N. Kaznhep, TS. V.I. Porchiakop Các nhà khoa học đã có nhiều đánh giá rất cụ thể về những chuyển biến tư tưởng, vị thế của Trung Quốc và Liên bang Nga cũng như những bước thiên biến trong quan hệ Nga - Trung. TS. Vlađimia Iakôplêvich Porchiakop - Phó viện trưởng Viện Viễn Đông, Tổng biên tập tạp chí "Những vấn đề Viễn Đông" (Проблемы Дальнего Востока) đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ giữa Nga và Trung Quốc qua các giai đoạn như “Một số khía cạnh hoàn thiện quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung(О некоторых аспектах совершенствования российско-китайского стратегического партнерства); “Quan hệ Nga - Trung năm 2008(Российско-китайские отношения в 2008 году) với những đánh giá rất mới mẻ, mang tính thời sự về mối quan hệ này như "Nga và Trung Quốc khách quan là những đồng minh ."[288,7], "Nga và Trung Quốc không chỉ có sự cần thiết khách quan mà còn có những cơ sở quan trọng để tiếp tục phát triển hoàn thiện quan hệ đối tác chiến lược"[288,18]. Cũng trong bối cảnh kỷ niệm 60 năm quan hệ hai nước, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Liên bang Nga Bôrôđápkin Alêcxây Nhikôlaiêvich (Боробавкин B.A.) trong bài "Nga và Trung Quốc: con đường láng giềng thân thiện và hợp tác" (Россия и Китай: по пути добрососедства и сотрудничестве) đã khẳng định "Quan hệ Nga - Trung đang phát triển ở mức độ cao nhất trong suốt chiều dài lịch sử của nó"[219,19].
    Nhìn chung, các học giả nghiên cứu Nga đều đã từng nghiên cứu toàn diện và có một cái nhìn lạc quan về sự phát triển của quan hệ Nga - Trung. Tuy nhiên, có một vấn đề mà các nhà nghiên cứu người Nga luôn đề cao trong các công trình nghiên cứu là có hay không "mối đe doạ từ Trung Quốc"?
    Ở Trung Quốc: Quan hệ Nga - Trung qua lăng kính của các nhà nghiên cứu Trung Quốc luôn mang một sức sống mới và đầy triển vọng. Hầu hết các công trình nghiên cứu của Trung Quốc về mối quan hệ Trung - Nga đều đi vào từng lĩnh vực hợp tác của hai nước, qua đó làm rõ xu thế hợp tác chiến lược của hai nước.
    Các công trình nghiên cứu của Trung Quốc như "Chương mới trong quan hệ đối tác chiến lược Nga - Trung" (开辟中俄战略协作关系新篇) của Giáo sư, Tiến


    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    TIẾNG VIỆT
    1. A.A Gơ-rô-mi-cô (1961), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Liên Xô, NXB Sự thật.
    2. A Gơ-rô-mi-cô, (1968), Báo cáo của Bộ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô: Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Liên Xô, NXB Thông tấn xã báo chí
    3. Bộ Ngoại giao, Học thuyết quân sự của Liên bang Nga thông qua ngày 21/4/2000.
    4. Bộ Ngoại giao (2005), Chiến lược đối ngoại Trung Quốc đầu thế kỷ XXI, Hà Nội.
    5. BCH TW Đảng Cộng sản Trung Quốc (1964), Bẩy bức thư trao đổi giữa BCH TW Đảng Cộng sản Trung Quốc với BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, NXB ngoại văn, Bắc Kinh.
    6. BCH TW Đảng Cộng sản Trung Quốc, (1969), Tuyên bố của Chính phủ nước CHND Trung Hoa ngày 24/5/1969, NXB ngoại văn - Bắc Kinh.
    7. BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, (1963), Thư ngỏ của BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô gửi BCH TW Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 19/7/1963, NXB Sự thật.
    8. BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, (1964), Thư trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, NXB Sự thật.
    9. Phạm Bá (2008), Hồ sơ mật đối ngoại: Những bí mật về ngoại giao Trung Quốc, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
    10. Phi Bằng (2001), Những sự kiện trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc, NXB Trẻ.
    11. Ngô Xuân Bình (2008), Bàn về sức mạnh của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1, tr 5-10.
    12. Khâu Bình, Hiểu Xung (cb) (2005), Thế hệ lãnh đạo thứ 5 Đảng cộng sản Trung Quốc, NXB Viện chiến lược và khoa học công an.
    13. Đỗ Minh Cao, (2008), 2007 - Năm Trung Quốc ở nước Nga: Đỉnh cao mới trong quan hệ Trung - Nga, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 2, tr 47-53.
    14. Hồ Châu (1997), Quan hệ Trung - Nga trong thời kỳ mới, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3, tr 26-31.
    15. Dương Vật Châu (cb), (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, NXB Chính trị quốc gia.
    16. Nguyễn Huy Cố (cb) (2006), Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới, NXB Thế giới, Hà Nội.
    17. Hồ An Cương cb (2003), Trung Quốc những chiến lược lớn, NXB Thông Tấn.
    18. Lê Văn Cương (2010), Cục diện an ninh Đông Á đến năm 2020, Tạp chí Cộng sản, số 811, tháng 5, Tr101-106.
    19. Lê Văn Cương (2010), Các trung tâm sức mạnh và khuynh hướng phát triển quan hệ Trung - Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 81, Tr185-194.
    20. David Capie, Paul Evans (2003), Thuật ngữ An ninh Châu Á - Thái Bình Dương, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
    21. G.A Giuganop, (1995), Nước Nga và thế giới hiện đại, NXB Chính trị quốc gia.
    22. Hoàng Thuỵ Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (2002), Một số vấn đề về liên kết, tập hợp lực lượng trên thế giới hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
    23. James C. Hsiung (2004), Tam giác chiến lược: Những động thái giữa Trung Quốc, Nga và Mỹ, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8, Tr 41-44.
    24. Nguyễn An Hà (cb) (2008), Liên bang Nga trên con đường phát triển những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội.
    25. Nguyễn An Hà (2009), Sự trỗi dậy của Liên bang Nga trong bối cảnh mới, Tạp chí Cộng sản, số 798, tr 102-106.
    26. Vũ Văn Hiền (2009), Bàn về trật tự thế giới, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 12, Tr 4-7.
    27. Trần Hiệp, (2007), Quan hệ giữa Liên Xô với Trung Quốc thời kỳ chiến tranh lạnh, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 8, tr 54-59.
    28. Trần Hiệp (2008), Vấn đề biên giới giữa Nga với Trung Quốc trước và trong chiến tranh lạnh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, Tr 5-13.
    29. Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hà (cb) (2006), Cục diện châu Á - Thái Bình Dương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
    30. Heinrich Kreft (2007), Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6, tr 22-30 (Xuân Tùng biên dịch).
    31. Vũ Dương Huân cb (2002), Hệ thống chính trị Liên bang Nga: Cơ cấu và tác động đến chính sách đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia.
     
Đang tải...