Thạc Sĩ Quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An (Việt Nam) - Xiêng Khoảng (Lào) từ 1976 đến 2010

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 15/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ năm 2013
    Đề tài: Quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An (Việt Nam) - Xiêng Khoảng (Lào) từ 1976 đến 2010
    Định dạng file word
    MỞ ĐẦU
    1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
    Việt Nam là quốc gia ven biển, phía Tây đất nước là rừng núi-dãy Trường Sơn, là cột sống của đất nước ta và xa hơn nữa là nước bạn Lào. Muốn bảo vệ được biển thì trước hết phải bảo vệ được đất liền, bảo vệ cái xương sống của mình. Chúng ta có thể đầu tư nhiều tiền của, công sức để bảo vệ biển, nhưng kẻ thù, các thế lực thù địch “thọc vào cột sống” của chúng ta thì không những không giữ được biển mà còn mất cả “mái nhà”.
    Việt Nam nằm ở phía Đông Trường Sơn nhìn ra biển. Bờ biển Việt Nam dài (gấp 6 lần mức trung bình của thế giới), nên việc bố trí chiến lược gặp không ít khó khăn. Còn Lào nằm ở sườn Tây dãy Trường Sơn. Dãy Trường Sơn được ví như cột sống của hai nước. Địa hình hiểm trở của Trường Sơn-một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, che chắn cho cả Việt Nam và Lào, nên phát huy được sự cần thiết dựa lưng vào nhau tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc
    Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam-Lào cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Việt-Lào hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cũng từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy” [48; 168].
    Rõ ràng Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng thân thiết, có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó từ lâu đời và ngày càng phát triển. Cho đến nay, quan hệ đặc biệt giữa hai nước là tài sản chung vô giá của hai dân tộc, là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Cùng với sự phát triển quan hệ hai nước, có thể nói quan hệ láng giềng thân thiện, đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu trong thời kỳ trước và quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện hiện nay giữa tỉnh Nghệ An với tỉnh Xiêng Khoảng-hai tỉnh có chung đường biên giới dài nhất trong số các tỉnh biên giới hai nước đã trở thành quan hệ tương đối điển hình trong số các tỉnh có chung đường biên giới Việt Nam-Lào.
    Nghệ An và Xiêng Khoảng là hai tỉnh có nhiều nét tương đồng về văn hóa, lịch sử, chính trị với nhau nhưng có một số khác biệt về mặt địa lý-tài nguyên-dân cư, cho nên trong quan hệ hữu nghị và hợp tác sẽ có sự bổ sung cho nhau để cùng phát triển. Trải qua thăng trầm lịch sử, quan hệ hai tỉnh không ngừng được củng cố, tăng cường. Nhân dân hai bên biên giới luôn phát huy truyền thống đoàn kết, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi trong chiến đấu chống kẻ thù xâm lược và trong lao động sản xuất.
    Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), cùng với sự chuyển biến trong quan hệ hai nước Việt Nam-Lào, mối quan hệ giữa hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng chuyển sang thời kỳ mới: Thời kỳ chuyển dần sang quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục.
    Nghiên cứu về mối quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng từ năm 1976 đến năm 2010 có ý nghĩa lớn về lý luận-khoa học. Thông qua mối quan hệ giữa hai tỉnh sẽ góp phần làm sáng rõ hơn quan hệ về các mặt của hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào, bởi vì quan hệ hai tỉnh là một bộ phận cấu thành nên quan hệ hai nước. Đồng thời, khẳng định quan hệ hợp tác hai tỉnh trong thời kỳ mới là sự kế thừa và phát triển quan hệ truyền thống giữa hai nước Việt Nam-Lào đã được các nhà lãnh đạo của hai nước trước đây dày công xây đắp, góp phần thực hiện chủ trương không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là chủ trương tăng cường quan hệ giữa các địa phương có chung đường biên giới. Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gần đây trên phương tiện thông tin đại chúng (13-3-2013) khi sang thăm tỉnh bạn: “Xiêng Khoảng là tỉnh có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng hai nước. Tôi mong muốn trong thời gian tới, tỉnh Xiêng Khoảng sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác với các địa phương của Việt Nam nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ vững chắc đường biên giới hòa bình hữu nghị và phát triển kinh tế xã hội” đã khẳng định thêm một lần nữa về điều đó.
    Hơn thế nữa, qua nghiên cứu sẽ tổng kết, đánh giá chặng đường hợp tác trong 35 năm (1976-2010), rút ra bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển hai địa phương.
    Mặt khác, nghiên cứu quan hệ hợp tác giữa Nghệ An và Xiêng Khoảng thời kỳ này còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đây là thời kỳ mà mối quan hệ Việt Nam-Lào trong bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế có nhiều biến động. Chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ đặt ra vấn đề tất cả các quốc gia phải tích cực hội nhập, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng về nhiều mặt. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam và Lào cần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về nhiều mặt với các nước trong khu vực và trên thế giới. Muốn vậy, hai nước phải không ngừng củng cố quan hệ với các nước truyền thống, thắt chặt quan hệ giữa các tỉnh chung đường biên giới. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu mối quan hệ hợp tác hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc ở chỗ cho chúng ta thấy được đặc điểm chính của hai giai đoạn trong quan hệ hợp tác. Nếu như ở giai đoạn 1976-1991 có đặc điểm nổi bật là mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân dân hai tỉnh được thực hiện trong điều kiện hai nước còn đang trong thời kỳ bao cấp với muôn vàn khó khăn của nền kinh tế kéo theo những khó khăn trong bảo vệ an ninh quốc phòng thì ở giai đoạn 1991-2010, mối quan hệ giữa hai tỉnh được thực hiện trong thời kỳ cả Việt Nam và Lào đều đã mở cửa nền kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với cơ chế mở, thông thoáng đã cho phép hai bên sử dụng và hợp tác một cách có hiệu quả tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, giao thông, xuất khẩu ., nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhằm góp phần tăng cường quan hệ Việt-Lào, tạo điều kiện để hai nước tham gia vào quá trình hội nhập; khẳng định một lần nữa về sự đóng góp của nhân dân Nghệ An-Xiêng Khoảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần vào thành công trên nhiều lĩnh vực của mỗi quốc gia, giúp nhân dân hiểu rõ hơn mối quan hệ hợp tác toàn diện, thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai tỉnh nói riêng, hai nước nói chung.
    Bên cạnh đó, luận án sẽ là sự tập hợp tư liệu có hệ thống và tương đối đầy đủ về đề tài này, góp phần vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và việc nghiên cứu tại Nghệ An nói riêng, nhằm nâng cao hơn nữa mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân dân hai tỉnh, đặc biệt là trong việc tìm hiểu, giảng dạy nội dung lịch sử quan hệ địa phương cho sinh viên đại học, cao đẳng trên địa bàn Nghệ An-nơi có nhiều sinh viên Lào nói chung và sinh viên Xiêng Khoảng nói riêng sang học tập, nghiên cứu. Đồng thời đề tài cũng góp phần vào việc cung cấp thông tin và tư liệu về quan hệ hai tỉnh cho học sinh, sinh viên các trường học tại tỉnh Xiêng Khoảng của nước bạn Lào.
    Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, chúng tôi chọn “Quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An (Việt Nam)-Xiêng Khoảng (Lào) từ 1976 đến 2010” làm luận án nghiên cứu sinh Tiến sĩ.
    2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    2.1. Đối tượng nghiên cứu
    Tên gọi của đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là: Quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An (Việt Nam)-Xiêng Khoảng (Lào) từ năm 1976 đến năm 2010. Cụ thể là quan hệ đó được nghiên cứu và trình bày một cách toàn diện, có hệ thống trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, biên giới, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế và công tác xã hội nhân đạo.
    2.2. Phạm vi nghiên cứu
    - Về phạm vi không gian và nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu ở phạm vi hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng, đặt trong bối cảnh quan hệ của hai nước Việt Nam và Lào. Đây là mối quan hệ vùng biên, giữa hai tỉnh có chung 166km đường biên giới. Trong đường lối đối ngoại, Việt Nam thiết lập quan hệ với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, song mối quan hệ với nước Lào là quan hệ đặc biệt, coi nhau như anh em, vì vậy quan hệ giữa Nghệ An và Xiêng Khoảng có tính tự chủ cao, cũng như thực hiện nghĩa vụ quốc tế hai bên. Mối quan hệ này diễn ra trên tinh thần hữu nghị, hợp tác và đồng thuận, có sự tác động giữa hai chiều, song luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu về chiều quan hệ Nghệ An-Xiêng Khoảng, mà ở đây Nghệ An được coi là có sự chủ động hơn trong các mối quan hệ. Mặt khác, trong mối quan hệ các tỉnh vùng biên của Việt Nam với các tỉnh biên giới của nước bạn Lào, Nghệ An-Xiêng Khoảng có đường biên dài nhất nhưng cũng là hai tỉnh có nhiều khó khăn hơn cả. Nghệ An-Xiêng Khoảng không có được lợi thế liên kết như Đà Nẵng hay Quảng Trị với các tỉnh của Lào vì họ có đường thông thương với Đông Bắc Thái Lan, tạo thuận lợi lớn về kinh tế. Nghệ An tuy dân cư đông đúc nhưng vùng núi còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng biên giới còn nghèo nàn, lạc hậu. Xiêng Khoảng cũng là tỉnh thuộc loại khó khăn nhất của Lào, dân cư thưa thớt, đường thông thương với các vùng rất khó khăn, đời sống nhân dân cũng khá nghèo, lạc hậu. Nhưng thuận lợi lớn đối với Nghệ An và Xiêng Khoảng là Nghệ An thuộc vùng đất nhân kiệt, nhiều người tài, nguồn nhân lực dồi dào, có thể san sẻ cho Xiêng Khoảng. Thuận lợi lớn nhất đối với Xiêng Khoảng ở chỗ: nơi đây từng là địa bàn căn cứ địa của cách mạng Lào, trong đó con người có quyết tâm cách mạng cao, một vùng tài nguyên phong phú đang chờ đợi con người khai thác. Ngoài ra, Xiêng Khoảng có vị trí địa-chiến lược và vai trò của tỉnh đối với chính trị, quốc phòng, an ninh của Nghệ An là đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối cảnh “nhân tố Trung Quốc” ngày càng tìm cách đầu tư, can dự vào nước Lào, Campuchia. Vì vậy, trong mối quan hệ này, tỉnh Nghệ An giúp bạn cũng là tự giúp mình.
    - Về phạm vi thời gian: Với sự chủ động hơn của mối quan hệ nói trên-là Nghệ An, trong bối cảnh quan hệ Việt Nam-Lào, luận án tập trung nghiên cứu từ năm 1976 đến năm 2010, tức là từ Tuyên bố chung ngày 11-2-1976 giữa hai nước đến kết thúc nhiệm kỳ Đại hội X của Trung ương Đảng và nhiệm kỳ XVI (2010) của Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Luận án chia khoảng thời gian này hành hai chặng: từ năm 1976 đến năm 1991, là thời gian hai nước đang thực hiện theo cơ chế bao cấp, thì quan hệ Nghệ An-Xiêng Khoảng được đặt chung trong quan hệ Nghệ Tĩnh-Xiêng Khoảng, bởi vì năm 1976 Nghệ An và Hà Tĩnh được Nhà nước Việt Nam sáp nhập thành một tỉnh, trong khi đó tỉnh Bôlykhămxay (giáp ranh với Hà Tĩnh ngày nay) đến năm 1983 mới được thành lập và quan hệ hợp tác vẫn chủ yếu là giữa Nghệ Tĩnh với Xiêng Khoảng, rất ít quan hệ với tỉnh Khăm Muộn; chặng thứ hai từ năm 1991 đến năm 2010, nghiên cứu quan hệ Nghệ An-Xiêng Khoảng trong điều kiện sau khi hai Nhà nước có chính sách mở cửa đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), cũng là lúc tỉnh Nghệ Tĩnh được chia tách trở lại thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
    3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
    3.1. Mục đích nghiên cứu
    Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần tìm hiểu mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và Lào trong phạm vi hai tỉnh. Trên cơ sở nhìn nhận toàn diện, có hệ thống về quan hệ hợp tác hai tỉnh có chung đường biên giới, luận án rút ra những nhận xét về mối quan hệ để thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác lâu dài hai bên, góp phần thực hiện đề án của Chính phủ về miền Tây Nghệ An và các huyện giáp ranh với Xiêng Khoảng.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Luận án có nhiệm vụ phân tích nhân tố địa lý-tự nhiên, văn hóa, lịch sử và chính trị, quan hệ hai tỉnh từ trước năm 1976, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, sự thay đổi cơ chế chính sách tác động đến quan hệ hợp tác; trình bày có hệ thống, toàn diện quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực cơ bản về chính trị, quốc phòng, an ninh, biên giới, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế giữa Nghệ Tĩnh-Xiêng Khoảng từ 1976 đến 1991 và giữa Nghệ An-Xiêng Khoảng từ 1991 đến 2010; rút ra nhận xét về thuận lợi, khó khăn, phương thức, đặc điểm, định hướng, cơ chế, giải pháp trong tương lai quan hệ hợp tác hai tỉnh.
    4. CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
    4.1. Cơ sở lý thuyết
    Quan hệ Việt Nam-Lào là mối quan hệ có cội nguồn từ xa xưa, được xây đắp bởi công sức của nhiều thế hệ; là quan hệ của hai quốc gia láng giềng, thân thiện, thủy chung, nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau. Quá trình lịch sử của hai dân tộc là những trang sử vẻ vang chiến đấu và chiến thắng chống giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do và xây dựng quê hương, đất nước .
    Nói đến cơ sở lý thuyết của luận án chúng tôi thấy đầu tiên phải lấy mối quan hệ Việt Nam-Lào làm nền tảng. Nhìn chung về mối quan hệ Việt Nam-Lào nổi lên hai vấn đề lớn nhất đó là mối quan hệ đặc biệt và sự hợp tác toàn diện. Trong đó có vấn đề các tỉnh chung biên giới kết nghĩa. Biên giới Việt Nam-Lào cũng là đường biên giới dài nhất giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phải xây dựng biên giới Việt Nam và Lào trở thành biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, làm mẫu mực cho vấn đề biên giới với các nước trong khu vực. Chúng tôi lấy đó làm kim chỉ nam về lý thuyết cho nghiên cứu mối quan hệ hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng. Luận án cũng thực hiện trên quan điểm mác xít và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào về đường lối đối ngoại giữa hai nước trong quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước.
    4.2. Phương pháp nghiên cứu
    Luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
    - Phương pháp lịch sử, trong đó tác giả tiến hành sưu tầm, tập hợp tài liệu liên quan, từ đó phân tích để tìm hiểu nhân tố tác động đến quan hệ hợp tác hai tỉnh qua hai giai đoạn. Đồng thời chọn lọc những sự kiện điển hình để tái hiện quan hệ hợp tác hai tỉnh trên các lĩnh vực cơ bản từ 1976 đến 2010, tất nhiên quan hệ trước năm 1976 được đề cập khái quát với tư cách là nhân tố lịch sử.
    - Phương pháp lôgíc: Trên cơ sở phân tích nguồn tài liệu, trình bày toàn diện, có hệ thống quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh, luận án đưa ra luận giải, nhận định chung về mối quan hệ trong từng lĩnh vực cũng như những nhận xét, đánh giá về thuận lợi, khó khăn, phương thức, đặc điểm, bài học kinh nghiệm và kiến nghị cơ chế, biện pháp phát triển mối quan hệ giữa hai tỉnh trong thời gian tới.
    Luận án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu điền dã thực tiễn, phỏng vấn để có cái nhìn khách quan, sát thực hơn về mối quan hệ này.
    Quá trình sử dụng các phương pháp nghiên cứu nói trên được nhìn nhận, tiếp cận trên quan điểm mác xít.
    4.3. Nguồn tài liệu
    Luận án tham khảo và sử dụng những nguồn tài liệu sau:
    - Tài liệu chuyên khảo: Bao gồm một số luận án, bài viết nghiên cứu, tham luận khoa học liên quan trực tiếp đến quan hệ Việt Nam-Lào từ 1975 đến nay và liên quan đến quan hệ hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng trên một số lĩnh vực.
    - Tài liệu gốc: Đó là nguồn tài liệu lý luận chính trị như văn kiện của Đảng, phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và địa phương. Đặc biệt là các văn bản về những thỏa thuận hợp tác, báo cáo sơ kết, tổng kết, công văn, quyết định, biên bản hội đàm, thông báo giữa tỉnh Nghệ An với Xiêng Khoảng từ năm 1976 đến năm 2010.
    - Tài liệu điền dã thực tế: Là quá trình tác giả tiếp xúc, trao đổi, phỏng vấn một số nhà nghiên cứu, nhân viên, cán bộ, lưu học sinh, sinh viên của các Sở, ban ngành ở hai tỉnh, trong đó có cả việc tìm hiểu thực địa các huyện, thị xã của tỉnh Xiêng Khoảng.
    5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
    Trong những năm trở lại đây, ở Việt Nam có không ít các công trình khoa học nghiên cứu về chủ đề quan hệ Việt-Lào, trong đó có quan hệ giữa các tỉnh dọc biên giới hai nước. Tuy nhiên, việc tiếp tục đi sâu tìm hiểu quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng trên các mặt từ 1976 đến 2010 là việc cần thiết. Ngoài tính cấp thiết, đề tài luận án có những đóng góp sau:
    Thứ nhất, luận án phân tích được những nhân tố ưu thế và tác động đến quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng từ năm 1976 đến năm 2010 về địa lý, tài nguyên thiên, văn hóa, lịch sử, chính trị, bối cảnh lịch sử, cơ chế chính sách của hai tỉnh. Đây là nội dung quan trọng để dẫn dắt đến sự phát triển của mối quan hệ hai tỉnh trong giai đoạn từ 1976 đến 2010 (cụ thể trong các chương 2, 3 đã trình bày có hệ thống quan hệ hợp tác giữa Nghệ An và Xiêng Khoảng trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa và một số lĩnh vực khác qua hai giai đoạn, liên quan đến một mối quan hệ quốc tế, nhưng ở cấp độ giữa các địa phương).
    Thứ hai, trên cơ sở các nghiên cứu khoa học, luận án rút ra một số nhận xét về thuận lợi, khó khăn, đặc điểm, bài học kinh nghiệm, đặc biệt là đưa ra định hướng, kiến nghị đối với chính quyền địa phương Nghệ An về việc thực hiện tốt chính sách mở rộng hợp tác Xiêng Khoảng một cách phù hợp với thực tiễn trong những năm tiếp theo.
    Thứ ba, luận án được xây dựng trên cơ sở tập hợp một cách tương đối đầy đủ nguồn tài liệu chuyên khảo và tài liệu gốc có giá trị, đáng tin cậy, phong phú, có cả tài liệu điền dã thực tế, liên quan trực tiếp đến giới hạn về nội dung và thời gian luận án đề cập.
    Thứ tư, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc thực hiện mục tiêu lớn là vấn đề đoàn kết Việt Nam-Lào, giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay phải tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết giữa nhân dân hai nước của cha ông, đặc biệt là thế hệ trẻ hai tỉnh Nghệ An-Xiêng Khoảng.
    Có thể khẳng định luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, toàn diện, khách quan, khoa học về quan hệ hợp tác giữa Nghệ An và Xiêng Khoảng trên các lĩnh vực cơ bản trong bối cảnh lịch sử đầy biến động từ năm 1976 đến năm 2010. Qua đó, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa hai tỉnh có chung đường biên giới trong bối cảnh quan hệ đặc biệt Việt Nam và Lào.
    6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án được kết cấu trong 4 chương:
    - Chương 1: Tổng quan
    - Chương 2: Quan hệ hợp tác Nghệ Tĩnh-Xiêng Khoảng từ năm 1976 đến năm 1991.
    - Chương 3: Quan hệ hợp tác Nghệ An-Xiêng Khoảng từ năm 1991 đến năm 2010.
    - Chương 4: Một số nhận xét


    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    I. Tài liệu tiếng Việt
    [1]. Ban Biên giới-UBND tỉnh Nghệ An (1999), Báo cáo tình hình thực hiện Hiệp định quy chế biên giới 1996-2000 và kế hoạch thực hiện 2001-2005,ĐVBQ, cặp 14, TTLT tỉnh Nghệ An.
    [2]. Ban Biên giới-UBND tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo sơ kết công tác biên giới 5 năm qua (1995-1999), ĐVBQ 109, cặp 14, TTLT UBND tỉnh Nghệ An.
    [3]. Ban Biên giới-UBND tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo tình hình hợp tác với các tỉnh của Lào trong việc bảo vệ chủ quyền biên giới và an ninh quốc gia, ĐVBQ 31, cặp 15, TTLT tỉnh Nghệ An.
    [4]. Ban Chỉ huy Biên phòng tỉnh Nghệ An (28-12-1995), Báo cáo Sơ kết hoạt động của đội K giai đoạn 1 tại địa bàn Mường Mộc-Xiêng Khoảng (Lào) từ năm 1993-1995, số 58/BC.CH, TTLT tỉnh Nghệ An.
    [5]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (1982), Báo cáo tổng kết công tác giúp đỡ hai tỉnh Xiêng Khoảng và Khăm Muộn năm 1982, Phòng LTTU Nghệ An.
    [6]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (10-3-1983), Báo cáo tổng kết công tác năm 1982 giúp hai tỉnh Xiêng Khoảng và Khăm Muộn, ĐVBQ 23, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [7]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (23-1-1984), Báo cáo công tác giúp hai tỉnh Xiêng Khoảng và Khăm Muộn từ năm 1981-1983, ĐVBQ 35, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [8]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (5-2-1985), Báo cáo tình hình năm 1984 của tỉnh Xiêng Khoảng, ĐVBQ 61, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [9]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (1985), Báo cáo kiểm điểm quan hệ hữu nghị giữa tỉnh Nghệ Tĩnh với các tỉnh bạn Lào những năm đầu của giai đoạn cách mạng mới, ĐVBQ 78, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [10]. Ban Công tác C tỉnh Nghệ Tĩnh (6-3-1986), Báo cáo tình hình năm 1985 của tỉnh Xiêng Khoảng, ĐVBQ 23, cặp 3, Phòng LTTU Nghệ An.
    [11]. Ban Công tác đặc biệt-UBND tỉnh Nghệ An (4-1997), Kế hoạch lễ đón tiễn hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở tỉnh Xiêng Khoảng (CHDCND Lào về nước), Trung tâm UBND tỉnh Nghệ An.
    [12].Ban Chỉ đạo cắm mốc biên giới Việt Nam-Lào tỉnh Nghệ An (5-2013), Báo cáo tại Hội đàm giữa 2 tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng tại Nậm Hon, huyện Mường Khăm ngày 24/5/2013, Tài liệu do cán bộ Sở Ngoại vụ Tỉnh Xiêng Khoảng Chanthavone Lattanavilay cung cấp.
    [13]. Ban Đối ngoại-UBND tỉnh Nghệ An (10-12-1993), Báo cáo tình hình quan hệ hợp tác giữa tỉnh Nghệ An với tỉnh Xiêng Khoảng (CHDCND Lào), số 119 BC-ĐN, TTLT tỉnh Nghệ An.
    [14]. Ban Đối ngoại tỉnh Nghệ An (11-12-1996), Tình hình quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa tỉnh Nghệ An với các tỉnh của CHDCND Lào trong những năm gần đây, Nghệ An.
    [15]. Ban Đối ngoại UBND tỉnh Nghệ An (30-11-1999), Báo cáo tình hình hợp tác với Lào năm 1999, Số 208 BC-ĐN, TTLT tỉnh Nghệ An.
    [16]. Ban Hợp tác Kinh tế-Văn hóa với Lào tỉnh Nghệ Tĩnh (1981), Báo cáo tình hình hợp tác kinh tế-văn hóa với hai tỉnh kết nghĩa Lào trong thời gian qua và hướng công tác tiếp tục trong thời gian tới, ĐVBQ 09, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [17]. Ban Hợp tác Kinh tế-Văn hóa với Lào tỉnh Nghệ Tĩnh (1985), Báo cáo những công việc đã làm ở hai tỉnh kết nghĩa từ năm 1980-1984 và những công việc hợp tác với bạn trong thời gian tới, ĐVBQ 15, cặp 2, Phòng LTTU Nghệ An.
    [18]. Ban Hợp tác Kinh tế-Văn hóa với Lào tỉnh Nghệ Tĩnh (19-12-1986),[I] Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hợp tác kinh tế-văn hóa với 2 tỉnh Xiêng Khoảng-Bôlykhămxay năm 1985 và phương hướng kế hoạch năm 1986, ĐVBQ 22, cặp 3, Phòng LTTU Nghệ An.
    [19]. Ban Hợp tác Kinh tế-Văn hóa với Lào tỉnh Nghệ Tĩnh (1986),[I] Báo cáo tình hình hợp tác kinh tế-văn hóa với các tỉnh kết nghĩa Lào 10 năm qua và hướng hợp tác trong thời gian tới, ĐVBQ 24, cặp 3, Phòng LTTU Nghệ An.
    [20]. Ban Hợp tác Kinh tế-Văn hóa với Lào tỉnh Nghệ An (1986), [I]Chuẩn bị nội dung làm việc sắp tới với đoàn đại biểu cấp cao tỉnh Xiêng Khoảng, ĐVBQ 35, cặp 3, Phòng LTTU Nghệ An.
    [21]. Ban Hợp tác kinh tế-văn hóa với Lào tỉnh Nghệ Tĩnh (1986),[I] Báo cáo công tác hợp tác kinh doanh rừng giữa Nghệ tĩnh với Công ty Phát triển kinh tế miền núi, dân tộc Lào (PBKP), ĐVBQ 26, cặp 3, Phòng LTTU Nghệ An.
    [22]. Ban Quản lý nghĩa trang Việt Lào-Anh Sơn (15-11-2002),[I] Bản tổng kết công tác nghĩa trang năm 2002, Nghệ An.
    [23]. BCH Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An (1998, 1999, 2008), [I]Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, 3 tập (1930-1954, 1954-1975, 1975-2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.[/I][/I][/I][/I][/I][/I]
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...