Luận Văn Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)


    Thế kỷ XXI trong xu thế chung của thế giới là hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, hợp tác liên kết với nhau giữa các nước, các tổ chức quốc tế là những đòi hỏi cần thiết của các quốc gia và là những đòi hỏi tất yếu khách quan hiện nay.
    Ngày nay, mỗi một quốc gia muốn phát triển theo kịp xu thế chung của thế giới cần phải “mở cửa” trong quan hệ, thực tế đã chứng minh không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu có hay nghèo khổ cũng không thể “khép kín” tự sản xuất tất cả những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình, vì thế cần phải “mở cửa” trong quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và hợp tác văn hóa - giáo dục để trao đổi học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau.
    Ở Việt Nam tư tưởng “mở cửa” đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chính sách ngoại giao mở cửa thông thương tạo dựng môi trường chung sống thuận lợi giữa nhân dân Việt Nam với các nước bên ngoài. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ xâm lược nhân dân Việt Nam đã sử dụng ngoại giao làm vũ khí đấu tranh chiến lược phối hợp cùng với mặt trận quân sự tạo nên thế trận vừa đánh vừa đàm. Trong xu thế chung toàn cầu hóa trên thế giới, vào tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới về đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn tồn tại những xung đột, mâu thuẩn gay gắt giữa các nước như chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ hoặc những hoạt động khủng bố còn diễn ra với nhiều hình thức phức tạp khác nhau.




    Trên thế giới sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với xu thế chung lấy kinh tế làm trung tâm và quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau cũng diễn ra nhiều mâu thuẩn khó có thể nói hết được, các nước lớn vừa hợp tác nhưng lại vừa mâu thuẩn cạnh tranh với nhau. Điểm nổi bật của xu thế toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tế trên toàn thế giới giống như một chỉnh thể mà trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia lại là một bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tuy tham gia vào quá trình toàn cầu hóa nhưng mỗi một quốc gia đều hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, đồng thời quá trình toàn cầu hóa cũng đem lại những tính chất phức tạp ảnh hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị, kinh tế của thế giới hiện nay.
    Về phía Việt Nam, chủ trương đổi mới của nước ta đã nhanh chóng được thực hiện trong đó có mở rộng chính sách đối ngoại với các nước trên thế giới. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” [25, tr 81].
    Đảng và nhà nước Việt Nam đổi mới nhiều chủ trương chính sách và các phương thức hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại để tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa đã xác định quyết tâm muốn mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước trên thế giới, từng bước hội nhập vào xu thế chung của khu vực và quốc tế, là bạn của tất cả các nước nhằm mục đích học hỏi kinh nghiệm, trao đổi hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Đại hội Đảng lần IX đã xác định nhiệm vụ: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẳn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế ” [ 28, tr 42 ].




    Với chủ trương muốn “làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” Đảng và nhà nước Việt Nam không những đã mở rộng các quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước phát triển thuộc nhiều khu vực khác nhau trong đó có Liên minh Châu Âu. Đối với các nước Bắc Âu đây là những nước có quan hệ hợp tác lâu dài với Việt Nam, là một trong các đối tác quan trọng của Việt Nam, các nước này đã và đang ủng hộ giúp đỡ hợp tác tích cực với nước ta trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
    Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á với những điều kiện tự nhiên, kinh tế thuận lợi đây là một khu vực có nhiều tiềm năng để hợp tác phát triển kinh tế trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, Việt Nam còn là một thị trường có nhiều tiềm năng với dân số hơn 80 triệu người, lực lượng lao động dồi dào, đất nước đang trong giai đoạn phát triển từng bước hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa vì vậy Việt Nam được đánh giá là một địa chỉ đáng tin cậy để đầu tư và hợp tác.
    Trong các mối quan hệ hợp tác quốc tế Việt Nam được Liên minh Châu Âu đánh giá cao và tích cực đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương, buôn bán hai chiều, các nước Bắc Âu cũng không nằm ngoài quy luật đó các nhà tư bản Bắc Âu đang từng bước thâm nhập vào thị trường rộng lớn ở Việt Nam.
    Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước Bắc Âu, trong giai đoạn đầu Việt Nam chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại từ các nước Bắc Âu. Từ khi Hiệp định khung được chính thức ký kết giữa Việt Nam với Liên minh Châu Âu, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được tiến hành trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học kỹ thuật, du lịch nhằm nhanh chóng thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật công nghệ, thị trường từ các nước Bắc Âu để đưa Việt Nam vượt qua tình trạng lạc hậu kéo dài trong nhiều




    năm tiến tới việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
    Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn đáp ứng những nhu cầu thực tiển của đất nước hiện nay, những kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có được những bài học kinh nghiệm, tìm được những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ giữa hai bên đồng thời trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp, những chính sách phù hợp để phát huy mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả hơn.
    Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ trước đến nay chưa được các nhà khoa học Lịch sử Việt Nam nghiên cứu. Quá trình phát triển của Việt Nam trong tương lai đòi hỏi cần phải tiếp cận đến những vấn đề hội nhập quốc tế và khu vực mang nhiều lợi ích cho đất nước một cách khách quan nhất.
    Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiển trên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)” với mong muốn khái quát, tổng hợp lại mối quan hệ này. Từ đó đưa ra những nhận định về quá trình phát triển hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trên cơ sở tác động của tình hình thế giới, khu vực và sự phát triển nội tại của Việt Nam trong những thời điểm khác nhau.
    2. Lịch sử vấn đề

    Theo hiểu biết của chúng tôi đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, chỉ có một số sách đã xuất bản đề cập đến vấn đề này chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế nhưng lại được lồng ghép trong mối quan hệ chung của khu vực EU và thế giới.
    Ở trong nước có một số sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu” của tiến sĩ Trần Thị Kim Dung, Nhà
     
Đang tải...