Thạc Sĩ Quan hệ giữa sinh kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mục lục

    1. GIỚI THIỆU 1
    2. TỔNG QUAN 5
    2.1 Nghèo đa chiều và tài sản sinh kế 5
    2.1.1 Đo lường nghèo .5
    2.1.2 Tài sản sinh kế và giảm nghèo .7
    2.2 Quan hệ giữa nghèo về tiền và các chỉ báo kinh tế - xã hội khác .8
    2.3 Khó khăn trong đo lường dữ liệu cho nghèo đa chiều 10
    3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN 11
    3.1 Tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 11
    3.2 Phạm vi nghiên cứu . 11
    3.3. Nguồn dữ liệu . 11
    3.4 Phân tích dữ liệu . 13
    4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .15
    4.1 Các đặc trưng cơ bản về tài sản sinh kế của hộ nông thôn Việt Nam . 15
    4.1.1 Vốn con người 15
    4.1.2 Vốn tự nhiên . 16
    4.1.3 Vốn vật chất . 16
    4.1.4 Vốn tài chính 19
    4.1.5 Tóm lược 20
    4.2 Quan hệ giữa các chỉ báo về tài sản sinh kế và tình trạng nghèo về tiền . 20
    4.2.1 Phân tích khám phá các quan hệ qua lại giữa các chỉ báo kinh tế - xã hội 20
    4.2.2 Tóm lược 22
    4.3 Áp dụng phân tích đa biến để tìm kiếm các chỉ báo cho nghèo đa chiều . 23
    4.3.1 Áp dụng phân tích Principle Component Analysis . 23
    4.3.2 Áp dụng phân tích Multiple Correspondence Analysis (MCA) . 26
    ii

    4.3.3 Chọn lựa các chỉ báo phù hợp cho nghèo đa chiều của hộ gia đình nông thôn Việt Nam
    theo tiếp cận tài sản sinh kế 30
    4.3.4 Tóm lược . 31
    4.4 Đo lường nghèo đa chiều bằng thống kê đa biến . 32
    4.4.1 Phân cụm nghèo đa chiều 32
    4.4.2 So sánh kết quả phân cụm hộ nghèo đa chiều và đơn chiều . 34
    4.4.3 Tóm lược . 37
    5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 39
    5.1 Kết luận 39
    5.2 Khuyến nghị . 40
    TÀI LIỆU THAM KHẢO . 41
    PHỤ LỤC 1















    iii

    Tóm lược
    Khái niệm nghèo về tiền thường được áp dụng trong nghiên cứu về đói nghèo trên thế
    giới. Tuy nhiên, tình trạng nghèo không chỉ được đo lường bằng chi tiêu hay thu nhập,
    mà còn bằng các chỉ báo về mức sống chỉ ra phúc lợi kinh tế - xã hội mà hộ gia đình có
    được. Mặc dù vậy, việc chọn lựa các chỉ báo phù hợp để đo lường nghèo đa chiều vẫn còn
    chưa rõ ràng. Cách tiếp cận Sinh kế bền vững (SLA) của Bộ Phát triển Quốc tế - Vương
    Quốc Anh (DFID) có quan hệ chặt chẽ với khái niệm nghèo đa chiều khi sử dụng một bộ
    các chỉ báo kinh tế - xã hội để phản ánh khả năng tiếp cập đến năm nhóm tài sản sinh kế
    bao gồm tài sản con người, xã hội, tự nhiên, vật chất và tài chính của hộ gia đình hoặc cá
    nhân.
    Nghiên cứu này nhằm đến việc khám phá các quan hệ qua lại giữa tình trạng nghèo về
    tiền và các đặc trưng kinh tế - xã hội khác của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam dựa trên
    cách tiếp cận sinh kế và tìm kiếm các chỉ báo kinh tế - xã hội phù hợp cho đo lường
    nghèo đa chiều.
    Các phương pháp phân tích đa biến như Principle Component Analysis, Multiple
    Correspondence Analysis và Cluster Analysis được sử dụng để khám phá các vấn đề nêu
    trên. Bộ dữ liệu phân tích bao gồm 6.837 hộ nông thôn được trích ra từ dữ liệu Điều tra
    Mức sống Hộ gia đình Việt Nam năm 2008.
    Kết quả nghiên cứu xác nhận rằng có tối thiểu 10 chiều đo lường cho tình trạng nghèo đa
    chiều và đại diện cho bốn nhóm tài sản sinh kế. Một số biến định lượng và phân loại
    được trích ra và sử dụng như là các chỉ báo phù hợp cho đo lường nghèo đa chiều. Phân
    loại hộ dựa trên tình trạng nghèo đa chiều tỏ ra có hiệu quả thống kê tốt hơn khi tính
    đồng nhất trong từng nhóm được cải thiện rõ ràng so với phân loại hộ dựa trên chi tiêu
    bình quân đầu người.

    Từ khóa: nghèo đa chiều, tài sản sinh kế, Principle Component Analysis, Multiple
    Correspondence Analysis, Cluster Analysis

    iv

    Từ viết tắt và Tên viết tắt
    CIP Composite Indicator of Poverty – Chỉ số nghèo tổng hợp
    DFID Department for International Development – United Kingdom – Bộ Phát
    triển quốc tế - Vương quốc Anh
    FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations – Tổ chức Lương
    nông thế giới của Liên Hiệp Quốc
    GSO General Statistics Office of Vietnam – Tổng cục Thống kê Việt Nam
    HDI Human Development Index – Chỉ số phát triển con người
    HPI Human Poverty Index – Chỉ số nghèo con người
    MOLISA Ministry of Labour – Invalids and Social Affairs – Bộ Lao động – Thương
    binh và Xã hội
    MCA Multiple Correspondence Analysis
    MPI Multidimensional Poverty Index - Chỉ số nghèo đa chiều
    PCA Principal Components Analysis
    SLA Sustainable Livelihood Approach – Tiếp cận sinh kế bền vững
    TSC Two-Step Cluster
    UNDP United Nations Development Programme – Chương trình Phát triển Liên
    Hiệp Quốc
    VASS Vietnamese Academy of Social Sciences – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
    VHLSS Vietnam Household Living Standard Survey – Điều tra Mức sống Hộ gia đình
    Việt Nam


    1

    1. GIỚI THIỆU
    Xác định bản chất của nghèo và cách thức đo lường nghèo là vấn đề thuộc lĩnh vực kinh
    tế phát triển được quan tâm ở tầm mức thế giới vì tính phức tạp của chúng. Việc xác định
    và đo lường nghèo một cách phù hợp có thể giúp chúng ta có được nhận thức tốt hơn về
    xã hội và chính phủ có những đáp ứng hiệu quả hơn để xóa đói giảm nghèo.
    Nghèo được định nghĩa như là “sự thiếu hụt, hay là sự bất lực trong việc tiếp cận đến một
    mức sống mà xã hội chấp nhận” (Ngân hàng thế giới, 2001, trích bởi FAO, 2005, trang 2).
    Ngân hàng thế giới cũng coi “nghèo là sự thiếu hụt hạnh phúc1” (World Bank Institute,
    2005, trang 9). Thuật ngữ “hạnh phúc” có thể được xem xét dưới nhiều góc độ. Thứ nhất,
    nghèo được đo lường bằng cách so sánh thu nhập hay tiêu dùng của cá nhân hay hộ gia
    đình với một ngưỡng mà xã hội coi như là một mức chuẩn về mức sống. Quan điểm điển
    hình này coi một cá nhân hay hộ gia đình là nghèo nếu mức sống của họ thấp hơn
    ngưỡng mức sống mà xã hội đặt ra ở một thời điểm. Bởi vì thu nhập hay tiêu dùng là nền
    tảng của đo lường, tình trạng nghèo như vậy được coi như là một vấn đề liên quan đến
    tiền. Nói cách khác, nghèo có nghĩa là có ít tiền. Điều này cũng có nghĩa là nghèo được đo
    lường bằng các chỉ báo tiền tệ chứ không phải là các chỉ báo xã hội. Cách tiếp cận này dẫn
    đến hai phương thức phân loại nghèo điển hình là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
    Nghèo tuyệt đối là tình trạng mà một cá nhân hay hộ gia đình có thu nhập hay chi tiêu
    thấp hơn một ngưỡng nghèo được xác định đối với một xã hội tại một thời điểm. Ngưỡng
    nghèo là là tổng hợp giá trị các hàng hóa tiêu dùng bảo đảm một mức sống tối thiểu.
    Trong khi đó, cách tiếp cận nghèo tương đối xác định một mức sống so sánh với vị trí của
    các cá nhân hay hộ gia đình khác trong xã hội dựa trên phân phối thu nhập hay chi tiêu
    (FAO, 2005, trang 4). Cách tiếp cận này thường dẫn đến việc phân nhóm cá nhân hay hộ
    gia đình theo ngũ phân vị dựa trên thu nhập hay chi tiêu.
    Khái niệm “hạnh phúc” có thể được hiểu theo cách thứ hai bằng cách mở rộng ý nghĩa
    của thuật ngữ “nghèo về tiền bạc” thành những loại hình hàng hóa tiêu dùng hoặc dịch
    vụ khác như lương thực, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các thứ khác mà mội cá
    nhân hay hộ gia đình cần phải có. Theo cách này, ta có thể có nhiều quan niệm khác nhau
    về nghèo ví dụ như nghèo về dinh dưỡng, nghèo về giáo dục, v.v. Mặc dù có những khác
    biệt nhất định về khái niệm và đo lường, cả hai cách phân loại nghèo này đều dựa trên
    một chỉ báo duy nhất, nên được gọi là cách đo lường đơn chiều.
    Tuy nhiên, nếu quay trở lại khái niệm rộng hơn về nghèo thì nghèo có thể được giải thích
    ởi các chỉ báo đa chiều (Anand & Sen, 1977). Nghèo không chỉ được đo lường bằng thu
    nhập, chi tiêu mà còn bởi khả năng tiếp cận một cách đồng thời đến lương thực, nhà ở,
    giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các mức sống xã hội khác, ngay cả các chỉ báo phi vật
    chất. Nói cách khác, nghèo được phản ánh bằng sự thiếu hụt phúc lợi xã hội ở các khía
    cạnh khác nhau và có thể được một bộ các chỉ báo đại diện. Tổng hòa các chỉ báo này
    phản ánh chất lượng cuộc sống. Rõ ràng là có sự quan hệ qua lại giữa các chỉ báo đói

    1
    Well-being
    2

    nghèo đa chiều chứ không chỉ đơn giản là quan hệ nhân quả giữa tình trạng nghèo về
    tiền bạc và các nhân tố khác. Các mối quan hệ qua lại này giữa các chỉ báo nghèo đa chiều
    làm cho việc đo lường nghèo trở nên phức tạp hơn so với quan hệ nhân quả đơn giản
    thường được áp dụng trong nghiên cứu nghèo, khi mà tình trạng nghèo đơn chiều được
    coi như là kết quả của nhiều nhân tố khác.
    Hiện nay, các tổ chức quốc tế đã áp dụng khái niệm nghèo đa chiều và xây dựng các chỉ
    số đo lường nghèo đa chiều. Các chỉ số đa chiều phổ biến nhất là Chỉ số nghèo con người
    (Human Poverty Index - HPI) do Anand và Sen đề xuất (1997), Chỉ số phát triển con
    người (Human Development Index - HDI) được Liên Hiệp Quốc sử dụng, và Chỉ số nghèo
    đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) do Đại học Oxford và UNDP áp dụng
    dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007).
    Trong khi đó, cho đến nay hầu hết các nghiên cứu về nghèo ở Việt Nam vẫn sử dụng tiếp
    cận nghèo đơn chiều, và chủ yếu dựa trên thu nhập hoặc chi tiêu theo hai cách phân loại
    nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Ngoài ra, các nghiên cứu này thường nhằm vào việc
    tìm kiếm các nhân tố kinh tế - xã hội gây ra nghèo. Nói cách khác, quan hệ nhân quả được
    coi là mặc định và nghèo là kết quả của các tình trạng kinh tế - xã hội khác biệt giữa các
    cá nhân, hộ gia đình, vùng miền ở một không gian và thời gian cho trước. Trong vài năm
    gần đây, một vài nghiên cứu bắt đầu áp dụng cách tiếp cận nghèo đa chiều, ví dụ như
    nghiên cứu đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh năm 2010. Tuy nhiên,
    dường như là tình trạng nghèo đa chiều áp dụng trong nghiên cứu này là tổng hợp của
    các khía cạnh kinh tế - xã hội đơn lẻ, bao gồm cả thu nhập và chi tiêu. Các quan hệ giữa
    các chỉ báo kinh tế - xã hội này chưa được làm rõ. Nói cách khác, việc lựa chọn các chỉ
    báo kinh tế xã hội đại diện cho các chiều đo lường, và việc chọn lựa các chiều đo lường
    không được giải thích chi tiết ở các báo cáo này.
    Theo quan điểm của lý thuyết sinh kế bền vững do Bộ Phát triển quốc tế - Vương quốc
    Anh (DFID) năm 1999, tình trạng kinh tế - xã hội của một cá nhân hay hộ gia đình có thể
    được hiểu là kết quả tổng hợp của khả năng tiếp cận đến năm nhóm tài sản sinh kế, bao
    gồm tài sản con người, tự nhiên, vật chất, tài chính và xã hội. Cách tiếp cận này rất gần
    gũi với khái niệm nghèo đa chiều ở khía cạnh sử dụng một bộ các chỉ báo kinh tế - xã hội
    để phản ánh khả năng tiếp cận đến các phương tiện sống cơ bản mà một cá nhân hay hộ
    gia đình cần có để tồn tại. Tuy nhiên, tiếp cận sinh kế bền vững tập trung vào tính phức
    tạp của sinh kế, nhất là các quan hệ phức tạp giữa năm nhóm tài sản sinh kế. Theo cách
    tiếp cận này, ta có thể coi sự kém tiếp cận đến năm nhóm tài sản sinh kế đồng nghĩa với
    tình trạng nghèo đa chiều.
    Hiển nhiên là có thể đo lường nghèo đa chiều bằng các khía cạnh kinh tế - xã hội khác
    nhau, thậm chí ở khía cạnh văn hóa. Chắc chắn là phải có mối quan hệ chặt chẽ giữa tình
    trạng nghèo về tiền bạc và tình trạng kinh tế - xã hội của cá nhân hoặc hộ gia đình. Tuy
    nhiên việc chọn lựa các chỉ báo phù hợp để đo lường nghèo đa chiều vẫn chưa thực sự rõ
    ràng. Các chỉ báo tiềm năng lại có thể biến đổi theo bối cảnh kinh tế – xã hội và con người
    cụ thể ở từng địa điểm nghiên cứu, và phải phù hợp với văn hóa của địa phương đó. Nếu
    3

    chọn lựa được các chỉ báo phù hợp, việc đo lường nghèo đa chiều sẽ trở nên chính xác
    hơn. Để đạt được yêu cầu này cần phải chọn lựa cẩn thận, hợp lý và cần phải có sự thấu
    hiểu về các quan hệ qua lại giữa các chỉ báo.
    Nghiên cứu này nhằm vào tìm hiểu các quan hệ qua lại giữa nghèo về tiền và các đặc
    điểm kinh tế - xã hội của hộ gia đình dựa trên tiếp cận sinh kế để hiểu hơn về nghèo đa
    chiều. Nghiên cứu này hy vọng tìm được các chỉ báo kinh tế - xã hội phù hợp để đo lường
    nghèo đa chiều. Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu này là khám phá và đánh giá nghèo ở
    bản chất đa chiều và nhất là các mối quan hệ qua lại giữa các chỉ báo kinh tế - xã hội này.
    Nối kết khái niệm tài sản sinh kế và nghèo đa chiều là cốt lõi của nghiên cứu này.
    Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này là: 1) tìm kiếm các chỉ báo phù hợp cho tình trạng
    nghèo ở các khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hóa; 2) hiểu được các quan hệ qua lại giữa
    các chỉ báo này; 3) phân loại tình trạng nghèo của hộ theo các chỉ báo đa chiều; và 4)
    khám phá sự khác biệt giữa cách thức phân loại hộ theo tình trạng nghèo về tiền và
    nghèo đa chiều.
    Các vấn đề nghiên cứu được trình bày trong năm phần. Phần 1 của báo cáo giới thiệu về
    tình hình áp dụng đo lường nghèo và các yêu cầu tìm kiếm các chỉ báo phù hợp cho đo
    lường nghèo đa chiều. Phần 2 bàn luận về các lý thuyết liên quan cũng như kết quả các
    nghiên cứu thực nghiệm áp dụng nghèo đa chiều. Phần 3 trình bày về các phương pháp
    nghiên cứu và hệ thống dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu. Phần 4 thể hiện các kết quả tính
    toán và phân tích chọn lựa các chỉ báo của nghèo đa chiều cho hộ gia đình nông thôn Việt
    Nam. Cuối cùng là các kết luận rút ra từ nghiên cứu và một số đề xuất nghiên cứu tiếp
    the
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...