Thạc Sĩ Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    5

    MỤC LỤC

    Mở đầu 7
    Chương I: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - Cơ
    sở lý luận. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ kinh tế và chính trị
    ở một số nước trên thế giới
    33
    1.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị - Cơ sở lý luận 33
    1.2. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam -
    Quá trình nhận thức và thực chất mối quan hệ
    60
    1.3. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở một
    số nước trên thế giới
    94
    Chương II: Những nhân tố tác động và thực trạng giải quyết mối
    quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ
    năm 1986 đến nay
    129

    2.1. Những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
    đổi mới chính trị ở nước ta
    129
    2.2. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
    chính trị ở nước ta từ năm 1986 đến nay
    153
    2.3. Đánh giá chung về kết quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
    kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
    223
    Chương III: Quan điểm, giải pháp về nhận thức và giải quyết hài
    hoà mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
    Nam
    235
    3.1. Quan điểm nhận thức và giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đổi
    mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
    235
    3.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đổi
    mới kinh tế và đổi mới chính trị
    254
    Kết luận 291
    Danh mục tài liệu tham khảo 295 6


    CÁC TỪ VIẾT TẮT

    Chủ nghĩa xã hội CNXH
    Chủ nghĩa tư bản CNTB
    Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
    Hệ thống chính trị HTCT
    Kinh tế thị trường KTTT
    Tư bản chủ nghĩa TBCN
    Xã hội chủ nghĩa XHCN
    Xã hội dân sự XHDS















    7

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ cơ bản, tồn tại khách quan trong
    mọi xã hội có phân chia giai cấp và được tổ chức thành nhà nước; có mối quan hệ
    mật thiết với quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa cái khách
    quan và cái chủ quan; giữa cái tất yếu và cái có thể .
    Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh tế là yếu tố cốt lõi của cơ
    sở hạ tầng, còn chính trị là yếu tố cốt lõi của kiến trúc thượng tầng. Bởi vậy, mối
    quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thực chất là mối quan hệ giữa
    kinh tế và chính trị. Nói cách khác, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
    thượng tầng được thể hiện cô đọng nhất, tập trung nhất trong quan hệ giữa kinh tế
    và chính trị, trong đó kinh tế suy đến cùng quyết định chính trị; ngược lại, chính trị
    định hướng cho quá trình phát triển kinh tế và điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Kinh
    tế phát triển là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho ổn định chính trị- xã hội và sự ổn định
    chính trị- xã hội là tiền đề, điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhận thức đúng
    và giải quyết thành công quan hệ giữa kinh tế và chính trị (nhấn mạnh mặt khách
    quan của vấn đề), giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị (nhấn mạnh mặt chủ
    quan của vấn đề) là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng, nội dung, nhịp độ,
    hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển. Xuất phát từ nhận thức và tư duy
    đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước vận dụng đúng đắn và giải quyết
    sáng tạo quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đổi mới, nhờ đó cách
    mạng nước ta đã thu được những thành tựu to lớn: đất nước ra khỏi tình trạng
    khủng hoảng kinh tế - xã hội bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
    phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế.
    Ngay từ Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
    nước; đồng thời nhấn mạnh đổi mới phải có bước đi và cách làm thích hợp. Tổng
    kết 5 năm đầu đổi mới 1986-1991, Đại hội VII của Đảng đã rút ra những bài học
    kinh nghiệm: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình
    thức và cách làm phù hợp Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
    phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải
    từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HTCT , việc đổi mới 8

    HTCT nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho
    phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến
    hành chậm trễ đổi mới HTCT, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ
    giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân” 1 . Đến Đại hội VIII, trên cơ sở
    tổng kết 10 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm: kết hợp chặt chẽ
    ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
    tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị 2 . Tổng kết 20 năm đổi mới, với bản
    lĩnh từng trải và sự trưởng thành trong nhận thức và tư duy, Đại hội Đảng toàn
    quốc lần thứ X đã khẳng định: đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
    hình thức và cách làm phù hợp 3 . Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động
    thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
    hội. Thực hiện nguyên tắc gắn phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là
    then chốt với phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội X của
    Đảng đã khẳng định quyết tâm sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát
    triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
    hướng hiện đại.
    Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
    tham gia tích cực và chủ động vào quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt kể từ khi gia
    nhập WTO, chúng ta cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về kinh tế và chính trị
    để phù hợp với những chuẩn mực chung của thế giới, đồng thời giữ vững được
    định hướng XHCN. Trên thế giới và khu vực, nhiều nước đã giải quyết khá tốt vấn
    đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị, nhờ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
    Những thành công và cả những thất bại trong giải quyết vấn đề này ở một số nước
    trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Á, Đông Nam Á và Trung Quốc, là những
    bài học quý báu để chúng ta có thể kế thừa.
    Tuy nhiên cho đến nay, công bằng mà đánh giá, chúng ta vẫn chưa nhận
    thức thấu đáo và có hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
    tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị, chưa làm rõ về mặt lý
    luận quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong điều kiện cụ thể ở Việt
    Nam. Còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau xoay quanh vấn đề quan hệ giữa kinh

    1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb St, H., 1991, tr. 53-54.
    2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H., 1996,
    tr.71.
    3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H., 2006 9

    tế và chính trị. Có ý kiến cho rằng, KTTT và CNXH không thể dung hợp, tương
    ứng với nền kinh tế có nhiều thành phần phải là nền chính trị đa nguyên. Có ý kiến
    quá đề cao KTTT, coi đó là “liều thuốc vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn
    đề chính trị - xã hội, không đánh giá đúng vai trò lãnh đạo, định hướng của chính
    trị (vai trò của Đảng) trong giải quyết các vấn đề kinh tế. Loại ý kiến khác lại quá
    đề cao vai trò của chính trị trong giải quyết các vấn đề kinh tế, tách rời chính trị
    khỏi kinh tế, tuyệt đối hoá sức mạnh của các quyết sách chính trị, làm cho nó mất
    cơ sở khách quan trên nền tảng kinh tế. Vì vậy, có tình trạng ở nơi này, nơi khác,
    lúc này, lúc khác muốn đẩy nhanh quá trình tự do hóa kinh tế hoặc gia tăng sự can
    thiệp của chính trị vào kinh tế, làm cho hai quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới
    chính trị bị tách rời nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau gây ra hậu quả xấu cho cả
    kinh tế lẫn chính trị.
    Ở nước ta hiện nay không khó để nhận ra một thực tế: kinh tế đổi mới nhanh
    hơn chính trị, các yếu tố của KTTT phát triển mạnh mẽ và hội nhập sâu vào nền
    kinh tế thế giới, trong khi đó, đổi mới chính trị còn tồn tại khá nhiều vấn đề chưa
    phù hợp, thậm chí còn bất cập so với đổi mới kinh tế, đặc biệt là hệ thống pháp
    luật. Do vậy, có lúc chính trị cản trở kinh tế và làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực
    (tham nhũng, quan liêu). Một số cải cách chính trị chưa theo kịp tốc độ phát triển
    của KTTT. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: Bên cạnh những thành tựu
    to lớn, cho đến nay nước ta vẫn đang trong tình trạng kém phát triển. Các lĩnh vực
    văn hóa, xã hội, xây dựng HTCT, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được
    một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta, đặc biệt là
    trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát
    triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế
    và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và
    chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
    Vì vậy, việc nghiên cứu để làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn giải quyết
    mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay, tổng kết
    những thành công, chỉ rõ những mâu thuẫn, cản trở để rút ra bài học kinh nghiệm
    và đề xuất những giải pháp hữu hiệu trong giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và
    chính trị là vấn đề cấp bách, là đòi của chính công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân
    giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
    10

    2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
    Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói chung, quan hệ giữa đổi mới
    kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam nói riêng là một trong những vấn đề lớn,
    phức tạp, nhạy cảm nhưng vô cùng quan trọng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
    nhiều nhà chính trị, nhà khoa học. Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình liên
    quan đến vấn đề này. Có thể chia thành bốn nhóm như sau:
    Nhóm thứ nhất: Các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.Lênin, Hồ Chí
    Minh và các văn kiện của Đảng ta về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
    - Thứ nhất, chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
    Trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển làm rõ phạm trù kinh tế,
    phạm trù chính trị, quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế
    giữ vai trò quyết định; chính trị tác động trở lại bằng cách lãnh đạo, định hướng,
    tạo động lực cho phát triển kinh tế. Kinh tế là cơ sở của đời sống xã hội; sản xuất
    vật chất là cơ sở của nhà nước, pháp quyền và ý thức xã hội; sở hữu tư nhân là cơ
    sở của xã hội đối kháng giai cấp; sở hữu xã hội là cơ sở của xã hội XHCN. Các nhà
    kinh điển cũng phân tích bản chất của chính trị, cấu trúc chính trị; nhà nước với tư
    cách là hạt nhân của thượng tầng kiến trúc. Khi phân tích quan hệ biện chứng giữa
    kinh tế với chính trị, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định, quan hệ giữa kinh tế và
    chính trị là quan hệ biện chứng, chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội.
    Sự quyết định suy đến cùng của kinh tế đối với chính trị thể hiện vai trò của cơ sở
    kinh tế, nguyên nhân, điều kiện và các quan hệ giữa kinh tế đối với các hiện tượng
    chính trị. Vai trò tích cực của chính trị đối với kinh tế thể hiện tập trung nhất vai
    trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng; vai trò của đảng chính trị đối
    với đời sống xã hội . Những nội dung trên được phản ánh trong các tác phẩm:
    C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập: T.1, 2, 3, 4, 6, 7, 11, 13, 14, 16, 17, 19, 20, 21,
    23, 24, 25, 26, 35, 36, 39, 41, 42, 46 (trong đó, tiêu biểu là các công trình Tuyên
    ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Phê phán cương lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh,
    Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước .); V.I.Lênin Toàn
    tập: T. 1, 2, 3, 11, 16, 33, 35, 36, 39, 42, 43, 44, 45 (trong đó tiêu biểu là các công
    trình: Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xôviết;Kinh tế chính trị trong
    thời đại chuyên chính vô sản, Thà ít mà tốt .).
    - Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về quan hệ giữa
    kinh tế và chính trị 11

    Khi xét quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
    tính chất quyết định của kinh tế đối với chế độ chính trị, đồng thời đánh giá cao sự
    tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế, chính trị, quan hệ giữa
    kinh tế và chính trị được Người đề cập đến trong nhiều tác phẩm của mình: Hồ Chí
    Minh Toàn tập: T.1, 2, 4, 5, 6, 7, 10, 11, trong đó tiêu biểu là các tác phẩm: Đường
    cách mệnh, Đời sống mới, Thường thức chính trị, Dân vận, Sửa đổi lối làm việc .
    Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa kinh tế và chính
    trị được cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới - từ
    năm 1986 đến nay. Nhận thức về quan hệ giữa kinh tế và chính trị được phát triển,
    sáng tỏ hơn qua các kỳ Đại hội, các hội nghị trung ương: Văn kiện Đại hội Đại
    biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp
    hành Trung ương khoá VI, Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị khóa VII, Nghị quyết
    Trung ương 5 khóa IX, Nghị quyết Trung ương 6 khóa X . Trong đó, quan hệ giữa
    đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị được khắc họa cụ thể nhất trong Nghị quyết
    Đại hội Đảng lần thứ VIII. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội sau gần 25 năm
    đổi mới chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong giải quyết quan hệ cốt
    yếu này.
    - Thứ ba, các công trình nghiên cứu quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
    tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
    Có nhiều công trình phân tích quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về quan
    hệ giữa kinh tế và chính trị qua thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga và Việt
    Nam. Tiêu biểu là các công trình của Nguyễn Ngọc Cường (2006): Lý luận học
    thuyết kinh tế- xã hội của Mác - phương pháp tiếp cận khoa học cho việc định
    hướng phát triển ở nước ta; Trần Kim Cúc (2006): Tư tưởng của C.Mác về vai trò
    của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế và thực tế hiện nay ở nước ta . Các
    công trình này trình bày tư tưởng của C.Mác về vai trò của nhà nước đối với sự
    phát triển kinh tế, cho rằng, mọi chính quyền nhà nước đều là phương tiện chính trị
    phục vụ lợi ích kinh tế của giai cấp cầm quyền. Một số công trình đã đi sâu phân
    tích vai trò của Nhà nước ta hiện nay đối với phát triển kinh tế.
    Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị được phân tích
    trong các công trình: Ngô Văn Minh (2006): Quan niệm của Hồ Chí Minh về
    những trở lực trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam; Trần Sỹ Phán (2007):
    Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Các tác giả trình bày 12

    tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, về đặc điểm các thành phần kinh tế trong thời kỳ
    quá độ ở nước ta; vai trò lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo, định hướng, tạo động
    lực phát triển kinh tế; chỉ rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, chính trị,
    văn hoá. Nhờ vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và
    chính trị, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn quan hệ cơ bản này, nhờ đó chúng ta đã
    đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
    Nhóm thứ hai: Lý luận chung về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
    Những vấn đề chung mang tính lý luận về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
    đổi mới chính trị được phản ánh trong các công trình sau: Đào Hữu Hải (2000):
    Quan hệ giữa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhất nguyên chính trị ở
    nước ta; Phạm Ngọc Quang (2004): Sự phát triển quan niệm của Đảng Cộng sản
    Việt Nam về phương hướng xây dựng CNXH trong quá trình đổi mới; Lê Xuân
    Tùng (2004): Những đột phá tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta; Hà
    Đăng (2005): Nhìn lại 20 năm đổi mới: Đổi mới bắt đầu từ đâu? Lê Cần Tĩnh
    (2005): Mấy suy nghĩ về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; Lê Hữu Nghĩa
    (2006): Hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
    Nam; Nhân Đăng (2006): Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới .
    Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, các tác giả phân tích quan hệ
    biện chứng giữa cơ sở hạ tầng - kinh tế và kiến trúc thượng tầng - chính trị, mọi sự
    phát triển xã hội đều bắt nguồn từ kinh tế và đều trên cơ sở của sự phát triển kinh
    tế, nhưng chính trị là yếu tố hiệu nghiệm nhất để phát triển kinh tế. Thực tế Việt
    Nam chỉ rõ, việc phát triển theo định hướng XHCN của nền KTTT chỉ có thể thực
    hiện được khi có định hướng chính trị đúng đắn. Nhưng một nền chính trị thực sự
    vững vàng nếu trước hết nó phù hợp với cơ sở kinh tế và đáp ứng yêu cầu phát
    triển kinh tế. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tìm mọi cách để đổi mới chính trị,
    làm cho nó phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
    phần, làm cho chính trị vừa phản ánh được nhu cầu phát triển của kinh tế vừa định
    hướng được cho sự phát triển kinh tế. Khẳng định đổi mới ở Việt Nam không chấp
    nhận đa nguyên chính trị, các nhà nghiên cứu chứng minh thực tiễn giải quyết mối
    quan hệ giữa kinh tế và chính trị: trên cơ sở đổi mới kinh tế chúng ta đổi mới vai
    trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò của các đoàn thể
    chính trị - xã hội. Các tác giả phân tích những bước phát triển tư duy lý luận về
    KTTT của Đảng ta qua các kỳ Đại hội, bắt đầu từ Đại hội VI và nhấn mạnh sự cần 13

    thiết xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN gắn với phát triển nền KTTT định
    hướng XHCN, kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị trong từng bước phát
    triển.
    Nhóm thứ ba: Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
    - Thứ nhất, các công trình của các tác giả nước ngoài bằng tiếng Việt
    Đề cập đến quan hệ giữa kinh tế và chính trị: 1) Ở Liên Xô có: Bôgônirốp
    (1974): Chủ nghĩa Lênin và vấn đề quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong thời kỳ xây
    dựng CNXH ở Liên Xô; 2) Ở Trung Quốc có: Wang Mao Lin (1994): Coi trọng
    cao độ vấn đề địa vị cầm quyền của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường; Mã
    Hồng (chủ biên) (1995): Kinh tế thị trường XHCN; Cung Kim Quốc (1996): CNXH
    cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường; Tang Ngọc Thành- Chu La Canh (1997):
    Mốc thúc đẩy cải cách tiến lên phía trước; Giang Trạch Dân (2002): Mục tiêu
    phấn đấu xây dựng toàn diện xã hội khá giả; Lý Thiết Ánh(2002): Về cải cách mở
    cửa ở Trung Quốc; Lý Cảnh Nguyên (2005): Tiêu chuẩn lực lượng sản xuất - hòn
    đá tảng của lý luận Đặng Tiểu Bình . 3) Ở Nhật Bản và các nước Đông Nam Á có:
    M.Y.Yoshino (1988): Hệ thống quản lý của Nhật Bản: truyền thống và sự đổi mới;
    Yoshihara K. (1991): Sự phát triển kinh tế Nhật Bản; Nhật Bản - bước chuyển biến
    tới thế kỷ XXI (1996); Bruno Amoroso (1998): Phân tích đánh giá tình hình khủng
    hoảng kinh tế ở Đông Nam Á; Azizul Islam- Syed M.Naseem (1999): Những bài
    học từ kinh nghiệm tăng trưởng của khu vực Đông và Đông Nam Á; Kinh tế Đông
    Á, nền tảng của sự thành công (1995); Sự thần kỳ Đông Á - Tăng trưởng kinh tế và
    chính sách công cộng (2001); Trần Văn Thắng (2007): Cải cách hành chính ở một
    số nước châu Á; Nguyễn Phương Nam (2007): Một số kinh nghiệm cải cách hành
    chính của Nhật Bản . Các công trình này phân tích những thành công, thất bại
    trong giải quyết quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở các nước trong những thời kỳ
    khác nhau, đặc biệt những kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản rất có giá trị
    đối với nước ta.
    Ngoài ra, một số công trình đề cập đến những quan điểm khác nhau về kinh
    tế và về chính trị, như: M.Gillis và các tác giả (1990): Kinh tế học của sự phát
    triển; A.Toffler (1991): Thăng trầm quyền lực; G.Lukas (1991): Chênh lệch của sự
    phát triển; Paul Kennedy (1992): Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc;
    H.Kurth - A.Romulo, H.Elsenhas (1993): Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu
    nhập; Ađam Forde và Steafan de Vylder (1997): Từ kế hoạch đến thị trường - sự 14

    chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam; Douglass C.North (1998): Các thể chế, sự thay đổi
    thể chế và hoạt động kinh tế; E.Wayne Nafziger (1998): Kinh tế học của các nước
    đang phát triển; Harry Shutt (2002): Chủ nghĩa tư bản, những bất ổn tiềm tàng;
    Ngân hàng thế giới (năm 2003): Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã
    hội; Henrik Hansen, John Rand và Finn Tarp (2005): Tăng trưởng và tồn tại của
    doanh nghiệp: vai trò hỗ trợ của nhà nước .
    - Thứ hai, các công trình của các tác giả nước ngoài bằng tiếng nước ngoài
    Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nhận được sự quan tâm
    nghiên cứu của nhiều học giả nước ngoài, biểu hiện qua số lượng lớn các công
    trình với sự phong phú về vấn đề, đối tượng, thời gian, phương pháp được lựa chọn
    để nghiên cứu, phân tích. Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu những lĩnh vực,
    những quốc gia có nhiều nét tương đồng về bối cảnh lịch sử, trình độ phát triển và
    chế độ chính trị với Việt Nam. Có thể phân loại các nghiên cứu vào một số hướng
    chủ yếu sau:
    + Trước hết, những vấn đề lý luận chung về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
    luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm xem xét, tìm hiểu. Các tác giả tập trung
    phân tích quan hệ và sự tác động qua lại chặt chẽ giữa chính trị và kinh tế, cũng
    như trình bày về quan hệ giữa phát triển nền KTTT và chế độ dân chủ trong chính
    trị. Trong số đó đáng chú ý là những công trình của Anthony Downs (1997): An
    Economic Theory of Democracy (Một học thuyết kinh tế của nền dân chủ). Đặc
    biệt là cuốn sách của John O'Neill (1998): The Market: Ethics, Knowledge and
    Polictics - Economics As Social Theory (Thị trường: đạo đức, hiểu biết và chính trị
    - Một học thuyết mang tính xã hội về kinh tế) cung cấp những đánh giá còn gây
    nhiều tranh cãi về hạn chế của thị trường, sự phồn thịnh trong tương lai và nền
    kinh tế phi thị trường.
    Cuốn Politics and Development: A Critical Introduction (Chính trị và sự
    phát triển: Lời giới thiệu mang tính phê bình) của Olle Tornquist (2002) chỉ ra
    cách thức nghiên cứu về chính trị và sự phát triển, những khó khăn trong việc tiếp
    cận nghiên cứu các vấn đề về sự phát triển trong bối cảnh chính trị thay đổi.
    + Nhiều tác giả phân tích quan hệ đặc biệt giữa kinh tế và chính trị trong
    những giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế cũng như khi có sự thay đổi lớn về
    chính trị trong nước cũng như quốc tế. Trong số đó đáng chú ý là cuốn sách của
    Gérard Roland (2000): Transition and Economics: Politics, Markets and Firms 15

    (Thời kỳ chuyển đổi và nền kinh tế: chính trị, thị trường và các nhà máy) cung cấp
    cách nhìn nhận về CNTB như một hệ thống kinh tế và đánh giá sự năng động trong
    thay đổi thể chế trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Cuốn sách Political
    Economy of Trasition and Development: Institutions, Polictics and Policies (2003)
    (Kinh tế chính trị thời kỳ chuyển đổi và phát triển: thể chế, chính trị và chính sách)
    do NauroF.Campos và Jan Fidrmuc chủ biên đã phân tích và đánh giá những tác
    động qua lại giữa thể chế, sự lựa chọn chính sách, phát triển kinh tế và những hậu
    quả chính trị tại những nước đang phát triển hay đang trong thời chuyển đổi ở
    Trung và Đông Âu.
    + Những vấn đề liên quan đến cải cách kinh tế và thay đổi chế độ chính trị ở
    Liên Xô (cũ) và Đông Âu cũng được nhiều người giả nghiên cứu. Ngay từ giữa
    những năm 80 của thế kỷ XX, khi Liên Xô và một loạt nước XHCN tiến hành công
    cuộc cải tổ, cải cách, vấn đề quan hệ giữa những thay đổi về kinh tế và chính trị đã
    thu hút được sự quan tâm của các học giả. Trong thời gian này, các nghiên cứu chủ
    yếu tập trung phân tích những con đường, cách thức tiến hành cải cách kinh tế và
    chính trị ở những nước này. Tiêu biểu là những cuốn sách của Stephan Haggard,
    Robert R. Kaufman (1992): The Politics of Economic Adjustment (Nền chính trị
    của sự điều chỉnh kinh tế).
    Những thành công và thất bại của các mô hình thay đổi kinh tế và chính trị
    XHCN ở các nước Đông Âu trước đây tiếp tục được nghiên cứu trong những
    khoảng thời gian sau này. Tuy nhiên, mối quan tâm chủ yếu của các nhà nghiên
    cứu là quá trình thay đổi từ nền kinh tế chỉ huy, tập trung của các nước XHCN
    trước đây sang nền KTTT tư bản và chế độ chính trị tương ứng. Đáng chú ý là
    những nghiên cứu của Jeffrey Friedman (1996): The Rational Choice Controversy:
    Economic Models of Politics Reconsidered (Sự lựa chọn của cuộc tranh luận: Mô
    hình kinh tế của sự xem xét lại chính trị); của David Held (1999): Global
    Transformations: Politics, Economics & Culture (Hiện đại hoá toàn cầu: chính trị,
    kinh tế và văn hoá). Và gần đây là cuốn Economics Transition in Central and
    Eastern Europe: Planting the Seeds (Thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở các nước Trung
    và Đông Âu: thời kỳ gieo hạt) của Daniel Gros (2004) và cuốn Economics of
    Transition: From Socialist Economy to Market Economy (Nền kinh tế thời kỳ
    chuyển đổi: từ nền kinh tế XHCN sang nền KTTT) của Marie Lavigne (2007)
    nghiên cứu quá trình chuyển hướng cải cách nền kinh tế của các nước Đông Âu và Nga đồng thời cung cấp những số liệu, sự kiện và những thành tựu đạt được trong
    việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, tái thiết nền kinh tế vi mô và hội nhập vào nền kinh
    tế thế giới của những quốc gia này.
    + Sự tác động giữa thay đổi kinh tế và chính trị ở các nước đang phát triển
    cũng là hướng nghiên cứu được nhiều người quan tâm. Bên cạnh những tác động
    của kinh tế đến chính trị, nhiều nghiên cứu đã nêu bật ảnh hưởng mạnh mẽ của
    chính trị đến phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác như xã hội, văn hoá, đạo đức ở
    các nước đang phát triển. Trong số các công trình về vấn đề này, tiêu biểu là cuốn
    sách của Brian C.Smith (2003): Understanding Third World Politics: Theories of
    Political Change and Development (Tìm hiểu tình hình chính trị của thế giới thứ
    ba: những học thuyết về sự thay đổi chính trị và sự phát triển); của Richard
    J.Payne, Jamal R.Nassar (2005): Politics and Culture in the Developing World:
    The Impact of Globalization (Tình hình chính trị và văn hoá ở thế giới đang phát
    triển: ảnh hưởng của toàn cầu hóa); của Joseph Weatherby và nhóm tác giả (2006):
    Other World: Issues and Politics of the Developing World (Thế giới khác: những
    tồn tại và tình hình chính trị của thế giới đang phát triển); của Richard J.Payne
    (2005): Politics and Culture in the Developing World: The Impact of Globalization
    (Chính trị và văn hoá ở các nước đang phát triển: ảnh hưởng của toàn cầu hóa). Và
    gần đây là cuốn sách Culture and Politics in Economic Development (Văn hóa và
    chính trị trong sự phát triển kinh tế) của V.Bornschier (2006) đã phân tích sự tăng
    trưởng và phát triển trong hai thế giới cũ và mới – những nước đang phát triển và
    những nước phát triển, đồng thời chỉ ra những yếu tố chính trị, xã hội có tác động
    to lớn thế nào đến sự thay đổi kinh tế của những quốc gia này.
    + Một trong những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là sự tác
    động qua lại giữa kinh tế và chính trị ở các nước châu Á, đặc biệt là khu vực Đông
    và Đông Nam Á. Đây cũng là khu vực gần gũi với Việt Nam về địa lý, văn hoá,
    trình độ phát triển. Trước hết khu vực này thu hút được sự chú ý của các nhà
    nghiên cứu bởi những thành công trong cải cách kinh tế và những thay đổi sâu sắc
    trong chính trị của các nước từng được mệnh danh là những “con rồng”, “con hổ”,
    những nền kinh tế “thần kỳ” của thế giới. Đáng chú ý là bản báo cáo The Eastern
    Asian Miracle: Economic Growth and Public Policy (Thần kỳ Đông Nam Á: Tăng
    trưởng kinh tế và chính sách công) của Ngân hàng thế giới (1993) nghiên cứu giai
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...