Luận Văn Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD="class: rows1, bgcolor: #DEE4FE, align: left"]Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    Hoạt động ngoại giao có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các quốc gia trên thế giới không thể tồn tại và phát triển cô lập. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, thiết lập mối quan hệ đa phương đang trở thành một trong những điều kiện phát triển của các quốc gia.
    Trong lịch sử, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực. Các mối quan hệ này đều có vai trò nhất định trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tùy vào mối quan hệ với từng quốc gia, trong những thời kì lịch sử cụ thể. Vào thời kì phong kiến, trong điều kiện cách trở về địa lý, thông tin liên lạc cũng như giao thông chưa phát triển, quan hệ với các nước láng giềng rất được coi trọng. Mối quan hệ với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, nhất là giai đoạn thế kỉ XVII - XIX được các chúa Nguyễn và vua Nguyễn lưu tâm.
    Chân Lạp xưa - Campuchia nay - và Đại Việt xưa - Việt Nam nay là hai quốc gia láng giềng, có chung đường biên giới và cùng nằm trên bán đảo Đông Dương. Ngay từ rất sớm, Đại Việt và Chân Lạp đã có quan hệ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Thời điểm bang giao chính thức giữa hoàng gia Chân Lạp và Đại Việt là vào đầu thế kỉ XVII dưới triều vua Chey Chettha II (1618 - 1628), chấm dứt vào năm 1897 khi người Pháp chính thức đặt nền bảo hộ và bắt đầu khai thác thuộc địa tại đây [50, tr.315].
    Đề tài Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được nghiên cứu nhằm mục đích góp phần hệ thống hóa một cách đầy đủ các sự kiện lịch sử để dựng nên bức tranh sinh động, trung thực về quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, cung cấp một cách nhìn toàn diện về quan hệ của hai nước; dựng lại rõ quá trình mở cõi về phía Nam của người Việt nói chung và chính quyền phong kiến nói riêng; nhìn nhận lại mối quan hệ Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm; đồng thời qua đó thấy được vai trò và vị trí của Đại Việt trong giai đoạn này trên chính




    trường khu vực. Việc nghiên cứu còn góp phần bổ sung nguồn tài liệu cho việc nhận thức về lịch sử Việt Nam thời Trung đại.
    Sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Xu hướng ngoại giao đa phương trở nên năng động và tích cực. Việt Nam đang bước vào thời kì tăng cường hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối ngoại giao đa phương, đa dạng; chú trọng tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao nói chung và lịch sử quan hệ Đại Việt - Chân Lạp nói riêng có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự sâu sắc. Nghiên cứu sự kiện lịch sử để hiểu đúng bản chất là rất cần thiết và nhất là những sự kiện quá khứ có liên quan đến quan hệ hiện tại. Những bài học của mối quan hệ ngoại giao trong lịch sử có thể góp phần nhận thức và giải quyết mối quan hệ hiện tại về mặt chủ quyền lãnh thổ, về đường biên giới giữa Việt Nam - Campuchia và việc hoạch định đường lối ngoại giao cho ngày nay.
    Việc nghiên cứu đề tài này cũng góp phần giúp người viết thu thập tư liệu, phục vụ việc giảng dạy ở trường Trung học phổ thông và mở rộng phạm vi nghiên cứu về sau.
    2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

    Mục đích của việc nghiên cứu là tìm hiểu quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa; làm rõ bối cảnh, diễn tiến, tình hình và đặc điểm, những bài học lịch sử của mối quan hệ đó.
    3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

    Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp là một trong những mối quan hệ được chính quyền phong kiến Đại Việt xem trọng, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX. Nhìn chung, đó là mối quan hệ bang giao hòa hiếu, thân thiện, diễn ra trên nhiều lĩnh vực và có tính liên tục.
    Mối quan hệ giữa hai nước đã được ghi lại trong nhiều bộ sử, qua các thời kì khác nhau. Đó là những tư liệu cổ, có thể cung cấp cho chúng ta những sự kiện chủ yếu trong quan hệ giữa hai nước.




    Đầu tiên là bộ Đại Việt sử lược, một công trình khuyết danh được hoàn thành vào những năm 1377 - 1388. Bộ sách được ghi chép dưới dạng biên niên, gồm ba quyển: quyển một ghi chép lịch sử từ thời thượng cổ đến hết Tiền Lê (1009), quyển hai ghi chép từ thời Lý Thái Tổ (1010) đến Lý Nhân Tông (1127), quyển ba ghi chép từ thời Lý Thần Tông (1128) đến Lý Huệ Tông (1124). Dù chỉ là một bộ sách nhỏ, song có nhiều chi tiết giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử nước nhà, nhất là về buổi đầu thời kì tự chủ. Bên cạnh việc ghi chép lại các sự kiện một cách vắn tắt, tác phẩm còn có những phần đối chiếu với các tài liệu thư tịch cổ khác, làm tăng tính chính xác của sử liệu. Nội dung ghi chép rất đa dạng, bao gồm: những việc làm của vua; việc kiến trúc thành quách, điện các, chùa tháp; việc bang giao với phong kiến Trung Hoa; việc bang giao với Champa, Chân Lạp Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có thể hiểu diện mạo kinh tế - xã hội cũng như thế thứ các đời vua, quan hệ bang giao của nước ta với các quốc gia trong khu vực giai đoạn trước triều Trần.
    Cũng ghi chép các sự kiện của lịch sử Việt Nam theo dạng biên niên, bộ Đại Việt sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dựa trên tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu và tác phẩm Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Năm 1665, Phạm công Trứ chỉnh lý trước tác của Ngô Sĩ Liên và viết thêm phần Bản kỷ tục biên. Năm
    1697, các quan Lê Hy, Nguyễn Quý Đức viết thêm và hiệu đính phần Bản kỷ tục biên, tập hợp toàn bộ các trước tác nói trên gọi là Đại Việt sử kí toàn thư. Tác phẩm ghi chép các sự kiện lịch sử của dân tộc từ thời Hồng Bàng cho đến hết đời Lê Thái Tổ. Trong tác phẩm, có một số ghi chép về mối bang giao của Đại Việt với các quốc gia trong khu vực, trong đó có mối quan hệ với Chân Lạp trên nhiều lĩnh vực.
    Bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn gồm 6 quyển, được viết vào năm 1776, lúc ông đang giữ chức Tham tán quân cơ ở Thuận Quảng. Bộ sách ghi chép về hai đạo Thuận Hóa và Quảng Nam trên nhiều mặt từ cảnh quan môi trường, địa lý hành chính, sản vật, phong tục đến lệ thuế má, nhân vật Bộ sách ngoài phần điểm lại quá trình dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng ở Thuận Hóa và đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, có phần ghi chép về công cuộc mở đất về phía Nam của triều đình




    phong kiến Đàng Trong. Tác phẩm được xem là một bộ địa lý - lịch sử phong phú về hai xứ Thuận - Quảng thế kỉ XVI - XVIII.
    Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn được vua Minh Mạng cho tiến hành biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần: Đại Nam thực lục tiền biên ghi chép giai đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép giai đoạn từ khi Nguyễn Ánh bôn ba tìm cách khôi phục quyền lực dòng họ (1777) đến khi vua Đồng Khánh mất (1889). Bộ sách là một tập hợp các ghi chép dưới dạng biên niên về những sự việc cụ thể, những lời nói, việc làm của vua, lời tâu trình của quần thần, việc nội trị, ngoại giao; trong đó có quan hệ bang giao của Việt Nam với Chân Lạp.
    Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là tác phẩm do Nội các triều Nguyễn biên soạn. Đây là loại sách điển lệ, được biên soạn từ năm 1843 dưới thời vua Thiệu Trị và hoàn thành vào năm 1851 dưới thời vua Tự Đức. Nội dung ghi chép tương đối đầy đủ các chiếu chỉ, phiến dụ của triều Nguyễn và các việc đã đem ra thi hành, các tấu sớ ở các bộ, các nha từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ tư (1852). Bộ sách gồm 262 quyển, chia thành 6 phần tương ứng với 6 ngành của công việc quốc gia, do 6 bộ phụ trách. Phần bộ Lễ ghi chép về việc bang giao gồm các mục: triều cận, quán xá, tuất điển, cứu vớt, cấm ước, phiên dịch, ban cho các nước lệ thuộc và ban cho thuộc Man, có nhiều tư liệu liên quan đến chính sách của triều Nguyễn đối với Chân Lạp.
    Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là một kho tư liệu về các chủ trương nội trị, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với các nước, trong đó có Chân
    Lạp.

    Đi Nam liệt truyện do Quốc sử quán biên soạn năm 1841, hoàn thành vào năm 1895 và được khắc in vào 1909. Nội dung chủ yếu là ghi chép về hàng trăm nhân vật lịch sử được chia thành các mục: Hậu phi, hoàng tử, công chúa, chư thần Bên cạnh việc ghi chép về các nhân vật lịch sử, tập 2 của Đại Nam liệt
     
Đang tải...