Tiểu Luận Quan điểm triết học Mác - Lênin về quá trình hình thành nhà nước ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài:
    QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
    Lời mở đầu


    Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ đặc biệt nào.


    Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Do đó nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến nhà nước tư sản.


    Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đúng như V.I.Lênin nhận định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể dcdiều hòa được”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất khi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.


    Nhà nước là một phạm trù lịch sử xã hội có giai cấp. Điều kiện quan trọng số một để nhà nước có thể ra dời được là trên cơ sở sức sản xuất phát triển dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội. Nhà nước ra đời là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu thuẫn giai cấp đã phát triển đến mức không thể điều hòa được. Đây là quy luật chung của tất cả các nhà nước trên thế giới, không loại trừ bất cứ một kiểu nhà nước nào dù có là nhà nước Aten, Hy Lạp, Giecmanh hay nhà nước mang tính đặc thù phương Đông.


    Riêng đối với loại hình nhà nước phương Đông. Ph.Erghen đã nêu rõ luận điểm mâu thuẫn, giải thích về quá trình ra đời của nhà nước ở đây như sau: “Trên cơ sở phân hóa xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho Nhà nước lúc ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng “vươn lên thành thống trị đối với xã hội”. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời của nhà nước phương Đông, ngoài đi sâu nghiên cứu sự phân hóa xã hội, chúng ta không thể không quan tâm đúng mức đến sự tác động của hai nhân tố khác là thủy lợi và tự vệ. Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này.


    Nhà nước Văn Lang tồn tại từ thế kỷ VII TCN đến năm 208 TCN. Nhà nước Văn Lang tổ chức bộ máy cai trị sơ lược, mang đậm tính chất thời kì quá độ có Nhà nước. Hệ thống của bô máy cai trị chia thành 3 cấp: Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hcg đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ, vốn là 15 bộ lạc trước đó. Lạc tướng cũng thế lập cha truyền con nối, còn gọi là phụ dạo bộ tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ còn có tên là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu kẻ, chạ chiềng là các từ chính (tức già làng). Mỗi công xã nông thôn có một nơi để hội họp, sinh hoạt cộng đồng.


    Sự ra đời sớm của nhà nước Văn Lang, dù còn sở khai, đã đánh dấu một bước phát triển lớn lao có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam - mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc ta.
    Bên cạnh chức năng thống trị, bóc lột, nhà nước Văn Lang thực hiện sự đoàn kết cộng đồng để chinh phục thiên nhiên, xây dựng các công trình thủy lợi và để chống lại các nguy cơ xâm lược từ bên ngoài.
    Từ sự phân hóa các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ đã có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu nghèo khác nhau. Sự phân hóa đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét trải qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên sự phân hóa xã hội thành hai cực bấy giờ chưa sâu sắc. Sự phân hóa tài sản là biểu hiện của sự phân hóa xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ gia tươngr, dẫn tới hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau. quy tắc, Nô tì, tầng lớp dân tự do của công xã nông thôn. Tầng lớp trên của xã hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý công việc công cộng của chiềng chạ.


    * Nhân tố thủy lợi, trị thủy và tự vệ chống ngoại xâm cũng đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn.


    Về nhu cầu thủy lợi và trị thủy: từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên. Khi con người tiến xuống khai phá vùng đồng bằng sông Hồng và chọn nghề trồng lúa nước là nghề sống chính là họ phải trực tiếp đối mặt với vùng đồng bằng sông nước. Sông Hồng chảy vào nước ta qua địa hình phức tạp nên có độ dốc cao, nên nó là con người “nguy hiểm” với con người. Để chinh phục được vùng đồng bằng này người Việt phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Và khó khăn hơn cà là đảm bảo được nguồn nước cho nông nghiệp. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán) đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo.


    Nội dung
    I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ NGUỒN GỐC NHÀ NƯỚC​II. SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM - NHÀ NƯỚC VĂN LANG​
     
Đang tải...