Luận Văn Quan điểm Mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Quan điểm Mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn



    I. QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ THỰC TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

    1/ Phạm trù thực tiễn
    Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Các ông không những trực tiếp tham gia vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
    Ở đây, cần khẳng định rằng, phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của lý luận nhận thức Mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết học Mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác nói chung.
    Vậy, thực tiễn là gì?
    Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
    Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những hoạt động vật chất để (phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
    Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn – như là hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo công cụ và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
    Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể được tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử-xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
    Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
    Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng xuất hiện - đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
    Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực tiễn được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo . Sở dĩ gọi là “không cơ bản” không phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phát sinh.
    2/ Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
    Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng.
    Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử -xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không đơn giản, thụ động, máy móc, nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn.
     
Đang tải...