Luận Văn Quan điểm có tính chỉ đạo và giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Quan điểm có tính chỉ đạo và giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

    1. Tầm vĩ mô:
    1.1.Hệ thống pháp luật phải đồng bộ:
    -Tham gia vào hội nhập kinh tế với những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh tế, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và chặt chẽ để đảm bảo thực hiện những nguyên tắc đó.
    Nhà nước phải đề ra những bộ luật rõ ràng, cụ thể về đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong và ngoài nước .Có như vậy mới tạo ra được một môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
    1.2. Điều chỉnh một số chính sách:
    Một nền kinh tế muốn phát triển được không chỉ dựa vào những điều kiện tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà còn cần phải có những quan điểm chỉ đạo, chính sách cải cách kinh tế hợp lý. Những chính sách đó bao gồm trên tất cả các lĩnh vực: thương mại – dịch vụ, đầu tư, tài chính – tiền tệ .
    1.2.1. Chính sách thương mại
    Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương hướng để tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10 năm 2001 – 2010 của nước ta. Một nội dung quan trọng của hội nhập là mở của thị trường trong nước hướng ra thị trường quốc tế. Tức là các vấn để thương mại giữa các bên cần phải có sự quan tâm đặc biệt. Các cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế đặt ra những yêu cầu phải điều chỉnh quy chế thương mại của Việt Nam.
    Cải cách thương mại theo hướng mở cửa và tự do hoá luôn là một nội dung quan trọng hàng đầu của mọi chương trình cải cách cơ cấu. Các quốc gia thực hiện cải cách thương mại thường nhằm 1 trong hai mục đích: khắc phục khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc tạo lập môi trường thuận lợi cho tăng trưởng nhanh chón và bền vững. Với Việt Nam trong những năm qua đã thực hiện 3 cuộc cải cách thương mại. Cuộc cải cách lần thứ nhất từ 1988 – 1992 do tình thế cấp bách với mục tiêu chính là khắc phục khủng hoảng kinh tế. Lần cải cách thứ hai được thực hiện một cách bài bản hơn trong chương trình ESAF và SAC, có sự hỗ trợ của IMF và WB trong thời gian từ 1994 đến 1997, dựa trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên sau cuộc cải cách này, chế độ thương mại của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và đặt Việt Nam ở tư thế bất lợi vì phải mở cửa và cạnh tranh với bên ngoài.
    Đến cuộc cải cách lần thứ 3, theo chương trình PRVS và PRSC cuối thập kỉ 90 và đầu những năm 2000 đã thực sự đem lại cho Việt Nam những điều kiện thuận lợi để hội nhập:
    Trong năm 1999, thống nhất với Nhật Bản trong khuôn khổ chương trình Miyazaza về một lịch trình xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan từ nay cho đến năm 2010 đối với 20 nhóm mặt hàng nhập khẩu có điều kiện.
    Trong năm 2000 đã đưa 9 nhóm mặt hàng ra khỏi danh mục cần giấy phép nhập khẩu như xút lỏng, hàng tiêu dùng bằng sành, thuỷ tinh .mở rộng sự tham gia của tư nhân vào xuất khẩu gạo khi cho phép 5 công ty tư nhân và 4 liên doanh được phép xuất khẩu gạo.
    Tháng 7, chính phủ đã kí hiệp định thương mại với Hoa kỳ, trong đó cam kết theo một lịch trình nhất định về việc tự do hoá thương quyền, xoá bỏ các hạn chế định lượng đối với hầu hết các sản phẩm, giảm thuế suất đối với một số hàng công nghiệp và nông sản .
    Ngoài ra, Việt Nam cũng đã hoàn tất lịch trình giảm thuế quan cho giai đoạn 2001 – 2006 theo khuôn khổ AFTA, dỡ bỏ yêu cầu tự cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.




     
Đang tải...