Tiểu Luận Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam trong quá trình đổi mới.

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam trong quá trình đổi mới.

    [TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD="width: 90%"]Lời mở đầu
    Mục tiêu của bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều hướng tới sự phát triển. Trong ba tiêu thức đánh giá sự phát triển, cơ cấu kinh tế được coi là tiêu thức để đánh giá sự thay đổi về chất, là dấu Lời mở đầu hiệu để đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của một nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế Trong đó cơ cấu ngành kinh tế là dạng quan trọng nhất, nó phản ánh trực tiếp sự phát triển của LLSX, của khoa học kỹ thuật và của phân công lao động xã hội. Sự chuyển dịchcơ cấu Lời mở đầu
    ngành phản ánh xu thế công nghiệp hoá (CNH) và là dấu hiệu phản ánh chất lượng của quá trình phát triển, là nội dung quan trọng nhất của phát triển kinh tế. Nó là vấn đề cơ bản cốt lõi, là nội dung quan trọng của tiến trình CNH- HĐH của bất kỳ một quốc gia nào không muốn đứng trong danh sách các nước nghèo nhất thế giới.
    Trong xu hướng vận động chung đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH là con đường đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển để trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nghị quết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định: "Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH" và coi "đây là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới","CNH- HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới". Đặc biệt trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển. Việt Nam sắp trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới thì việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu ngành hợp lý sẽ thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho Việt Nam chủ động hội nhập thắng lợi.
    Với mong muốn được nghiên cứu sâu hơn tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam trong quá trình đổi mới. Tìm hiểu những kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra hiện nay.
    Phần I: Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá.
    Phần II: Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam trong quá trình đổi mới.
    Phần III: Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay.


    Phần I:
    Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH
    I. Khái niệm
    1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế
    Cơ cấu (hay kết cấu) là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận củ
    rằng phải "thúc đẩy thực hiện công nghiệp hóa", vấn đề cơ cấu được nhận thức lại là "tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, công nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng Đảng cộng sản Việt Nam - văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ V - Tập 1 - NXB sự thật. Hà Nội 1982 tr 62).
    Những điều chỉnh bước đầu trong quan điểm cơ cấu thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hóa của Đại hội V về thực chất là thừa nhận mức độ chưa chín muối cho nên kinh tế có thể chuyển dịch cơ cấu sang phía công nghiệp. Mặc dù vậy, việc sửa chữa này vẫn được đánh giá là chưa đạt yêu cầu.
    Đại hội VI (1986) với cách đặt vấn đề "chương trình đổi mới tư duy kinh tế" đã đánh dấu bước ngoặt căn bản trong nhận thức lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa. Đại hội đã thừa nhận "những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế" và nguyên nhân chủ yếu được chỉ ra là do "tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ quan những bước đi cần thiết Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh không tiến tới điều kiện và khả năng thực tế (Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB Sự thật - Hà Nội 1987, tr 19 - 20).
    Từ đánh giá lại thực trạng của xuất phát điểm như trên, Đại hội VI (1986) xác định giải pháp cơ cấu là "phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu".
    Đến Đại hội VII (1991), sau khi đánh giá tình hình tiến hành công cuộc "đấu tranh mới" đã ghi nhận những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời nhận định rằng "khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn chưa chấm dứt". Xác định mục tiêu cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991 - 1995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đưa đất nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay" và coi việc phát triển nông, lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định kinh tế - xã hội" (Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1991 tr 63).
    Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam (1996) trên cơ sở bước đầu của 10 năm đổi mới và những xu hướng vận động mà của kinh tế quốc tế, đã đề ra mục tiêu tổng quát là "ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp vào năm 2020". Từ mục tiêu tổng quát đó, phương hướng chung về mô hình công nghiệp hóa là "xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả" (Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1996, tr 84 - 85). Đại hội cũng nhận định "phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển nông lâm ngư nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch dịch vụ. Khôi phục, phát triển từng bước hiện đại hóa các ngành nghề thủ công truyền thống đi đôi với mở mang những ngành nghề mới" (Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXBCTQG - Hà Nội 1996, tr 22-23). Riêng đối với khu vực công nghiệp, Đại hội xác định "ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp đầu tư và công nghiệp thông tin. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng" còn đối với khu vực dịch vụ, những ngành cần phát triển nhanh là "du lịch, hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, TCNH, kiểm toán, Bảo hiểm, công nghệ, pháp lý và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đa nước ta trở thành một trung tâm du lịch thương mại, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực).
    Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã đặt dần mối quan hệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đại hội thông qua mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội "Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước". Đặc biệt lần đầu tiên CDCC lao động được đưa vào như một mục tiêu quan trọng của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     
Đang tải...