Thạc Sĩ Phương thức so sánh trong văn bạn luật tục Ê Đê

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/11/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Tr.
    MỞ ĐẦU
    0.1. Lý do chọn đề tài 5
    0.2. Tình hình nghiên cứu 5
    0.2.1. Tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước khác 5
    0.2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu luật tục Êđê 7
    0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11
    0.4. Phương pháp nghiên cứu 16
    0.5. Đóng góp chính của luận án 17
    0.6. Bố cục luận án 18
    Chương I
    CẤU TRÚC CỦA PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG VĂN
    BẢN LUẬT TỤC ÊĐÊ
    1.1. Tổng quan về so sánh 21
    1.1.1. Những nội dung liên quan đến so sánh 21
    1.1.2. Tiêu chí phân loại so sánh 24
    1.2. Cấu trúc phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê 28
    1.2.1. Đặc điểm của cấu trúc so sánh 28
    1.2.2. Đặc điểm cấu tạo các thành tố cấu trúc 31
    1.3. Phân loại cấu trúc so sánh 46
    1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức cấu trúc 47
    1.3.2. Phân loại theo tiêu chí quan hệ nghĩa 51
    1.4. Mục đích sử dụng so sánh trong luật tục Êđê 57
    1.4. 1. So sánh nhằm giải thích 58
    1.4. 2. So sánh nhằm miêu tả 60
    1.4.3. So sánh để đánh giá 64
    1.4.4. So sánh để biểu lộ cảm xúc 66
    1.4.5. So sánh nhằm thể hiện nhiều mục đích 68
    1.5. Tiểu kết 69
    Chương II
    PHƯƠNG TIỆN HÌNH ẢNH VÀ KHẢ NĂNG BIỂU ĐẠT CỦA
    PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG VĂN BẢN LUẬT TỤC
    ÊĐÊ
    2.1. Phương tiện hình ảnh của phương thức so sánh trong luật tục 71
    2.1.1. Các loại hình ảnh so sánh 71
    2.1.2. Chi tiết hoá hình ảnh so sánh 83
    2.2. Các khả năng biểu đạt của phương thức so sánh 99
    2.2.1. Khả năng so sánh phù hợp nội dung biểu đạt 99
    2.2.2. Khả năng so sánh cụ thể hóa nội dung biểu đạt 103
    2.2.3. Khả năng so sánh làm cho nội dung càng sâu sắc 1044
    2.2.4. Dùng nhiều so sánh để tăng hiệu quả nội dung biểu đạt 105
    2.3. Tiểu kết 107
    Chương III
    TỪ PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG LUẬT TỤC ĐẾN
    CÁC BIỂU TƯỢNG TINH THẦN
    3.1. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về buôn làng 109
    3.2. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về cộng đồng 126
    3.3. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về thủ lĩnh 129
    3.4. Từ phương thức so sánh đến các biểu tượng về người vi phạm
    luật tục 132
    3.5. Tiểu kết 139
    Chương IV
    PHƯƠNG THỨC SO SÁNH TRONG LUẬT TỤC THỂ HIỆN
    CÁC NHÂN TỐ VĂN HOÁ XÃ HỘI
    4.1. Phương thức so sánh thể hiện văn hoá sản xuất 140
    4.2. Phương thức so sánh thể hiện văn hóa ứng xử 146
    4.3. Phương thức so sánh thể hiện các tri thức văn hoá dân gian 148
    4.4. Phương thức so sánh thể hiện các yếu tố tâm lý dân tộc 164
    4.5. Sự tương đồng và khác biệt về văn hoá giữa so sánh trong
    luật tục Êđê và luật tục Jrai 172
    4.6. Sự tương đồng và khác biệt về văn hoá giữa so sánh trong luật
    tục Êđê với cách so sánh và diễn đạt của người Kinh 178
    4.7. Tiểu kết 184
    KẾT LUẬN 186
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 192
    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
    ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 200
    PHỤ LỤC 2015
    MỞ ĐẦU
    0.1. Lý do chọn đề tài
    Luật tục Êđê có giá trị nhiều mặt, cho đến nay chưa được khai thác hết
    và việc nghiên cứu giá trị ngôn ngữ tình hình cũng không khác. Do đó, việc
    tìm hiểu giá trị ngôn ngữ của luật tục Êđê là việc làm cần thiết và quan trọng
    để góp phần bảo tồn và phát huy một vốn quý của văn hóa Êđê. Việc khảo sát
    phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê, sẽ cho ta thấy so sánh trong
    luật tục của dân tộc Êđê có những đặc điểm gì và mở rộng tìm hiểu thêm mối
    quan hệ hai chiều giữa ngôn ngữ và văn hoá, cụ thể là giữa phương thức so
    sánh với một số nhân tố văn hoá của dân tộc Êđê được thể hiện qua văn bản
    luật tục Êđê. Những đặc điểm và mối quan hệ này tuy không dễ phát hiện,
    nhưng liên quan mật thiết đến nhiều mặt khác nhau trong đời sống văn hoá
    tinh thần người Êđê và đến lượt nó luật tục có tác dụng đối với việc củng cố,
    ổn định, phát triển cộng đồng người Êđê.
    Chọn đề tài: Phương thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê để
    nghiên cứu, chúng tôi mong muốn góp phần khai thác, bảo tồn và phát huy
    các giá trị luật tục của người Êđê trên Tây Nguyên.
    0.2. Tình hình nghiên cứu
    0.2.1.Tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước
    khác
    Qua các tài liệu nghiên cứu luật tục của các học giả trong nước [42],
    [66], [95], [97] . tình hình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và một số nước
    khác có thể tóm lược như sau:
    Vào cuối thế kỷ XIX khi nhiều miền đất mới trên thế giới được phát
    hiện, nhất là khi chủ nghĩa thực dân phát triển, luật tục đã bắt đầu được quan
    tâm nghiên cứu. Trong số các công trình nghiên cứu luật tục có những công
    trình nghiên cứu ở các nước thuộc địa nhằm tìm hiểu phong tục tập quán của
    người bản xứ để xây dựng luật pháp phục vụ cho việc quản lý xã hội ở các xứ 6
    thuộc địa. Việc áp dụng thể chế quản lý xã hội nào để cai trị xã hội thuộc địa
    đã được Bronislaw Maninowski, người đứng đầu trường phái chức năng
    nghiên cứu luật tục, kết luận: “Không dùng một thể chế xã hội này áp đặt cho
    một xã hội khác, mà phải sử dụng bản thân thể chế xã hội vốn có để quản lý
    xã hội đó“ (dẫn theo tài liệu 97, trang 14) [97, 14]. Ở châu Âu và nhất là các
    nước châu Phi, người ta quan tâm tới luật tục ở góc độ từ tập quán nâng lên
    trở thành luật pháp chỉ khi nó được một đạo luật hay một quyết định của toà
    án công nhận, khi đó nó được biết như là luật, được chấp nhận như là luật và
    thi hành như là luật. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học tiếp tục nghiên
    cứu luật tục dưới góc độ nhân loại học và bắt đầu văn bản hoá luật tục, mở
    rộng phạm vi nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, như vấn đề lý luận
    và phương pháp nghiên cứu luật tục. Dựa trên những quan điểm chung đó,
    nhiều nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu luật tục của các dân tộc ở nhiều vùng,
    nhiều quốc gia trên thế giới. Tài liệu [97,18] cho biết, ở châu Á có công trình
    do Masaji Chiba (Nhật Bản) chủ biên, xuất bản năm 1986, trình bày luật tục
    của người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản. Tiếp
    đến là công trình nghiên cứu của Von Benda- Beckmann K. và Von Benda –
    Beckmann F. người Hà Lan về luật tục Inđônêxia, luật tục Malayxia. Công
    trình nghiên cứu của Kayleen M. Hazle Hurst đề cập đến luật tục Canada,
    Australia và New Zealand.
    Nhìn chung, trong thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu luật tục trên thế
    giới đã đạt được những bước phát triển đáng kể, về phương diện lý luận, về
    phương pháp, kể cả những công trình nghiên cứu các trường hợp cụ thể. Điều
    này đã tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu luật tục ở Việt Nam.
    Cũng theo tài liệu [97] thì ở nước ta vào đầu thế kỷ XX, luật tục của
    các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được các quan chức thuộc địa Pháp ở Việt
    Nam quan tâm sưu tầm và lần lượt cho ra đời, luật tục Êđê (1926), luật tục
    Stiêng (1951), luật tục Srê (1951), luật tục Ba Na, Xê Đăng (1952), luật tục
    Mạ (1957), luật tục Jrai (1963) . Từ năm 1996, Viện Nghiên cứu Văn hoá 7
    dân gian đã phối hợp với các sở văn hoá thông tin các tỉnh Tây Nguyên, tiếp
    tục sưu tầm, bổ sung và lần lượt cho ra mắt nhiều bộ luật tục, như luật tục
    Êđê (1996), luật tục Jrai (1997) luật tục M’nông (1998). Ở miền núi phía bắc
    cho đến những năm 80 của thế kỷ XX việc sưu tầm luật tục mới được bắt đầu
    và năm 1999 luật tục của người Thái được giới thiệu.
    0.2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu luật tục Êđê
    Năm 1913, viên Công sứ người Pháp tên L.Sabatier tỉnh Đăk Lăk cho
    sưu tầm luật tục Êđê và lần đầu tiên luật tục Êđê được văn bản hoá vào năm
    1926 bằng tiếng Êđê (ở nước Pháp). Đây là công trình sưu tầm về luật tục
    đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1940, dịch giả người Pháp là D. Antomarchi dịch
    luật tục này ra tiếng Pháp. Năm 1984, nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn
    Hữu Thấu dựa vào văn bản luật tục Êđê bằng tiếng Pháp dịch sang tiếng Việt.
    Cũng từ năm 1984, với chương trình điều tra Tây Nguyên của Nhà nước, luật
    tục Êđê được sưu tầm bổ sung và cho in thành sách song ngữ Việt - Êđê, do
    Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Hữu Thấu, Chu Thái Sơn biên soạn, có 11 chương
    bao gồm 236 điều khoản, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1996.
    Các công trình nghiên cứu về luật tục ở Việt Nam nói chung, luật tục
    Êđê nói riêng không phải là nhiều, hầu hết là những chuyên khảo bàn về giá
    trị nội dung, trong số đó có ít nhiều nhận định đề cập đến giá trị ngôn ngữ
    của luật tục. Tuy nhiên cho đến nay chưa có chuyên khảo bàn sâu về giá trị
    ngôn ngữ luật tục. Riêng về giá trị nội dung của luật tục Êđê thì đã được các
    tác giả chú ý đến nhiều hơn và đi sâu vào nhiều khía cạnh khác nhau.
    GS TS Ngô Đức Thịnh khi trình bày khái quát về luật tục đã khẳng
    định những giá trị cơ bản của luật tục Êđê. Ông xem luật tục Êđê “là nguồn
    tư liệu quý hiếm để nghiên cứu xã hội tộc người và văn hoá tộc người; là di
    sản văn hoá độc đáo của dân tộc, là tri thức dân gian về quản lý cộng đồng”
    [94, 130]. Đồng thời, tác giả cũng nêu những mối quan hệ giữa luật tục với
    đời sống và sự tác động của nó đối với quá trình phát triển xã hội, với các nội 8
    dung cụ thể, như: luật tục từ trong buôn làng đến quốc gia - dân tộc; từ luật
    tục đến pháp luật nhà nước; luật tục, toà án phong tục và tổ hoà giải của
    làng buôn. Tác giả đã nhấn mạnh: “Bộ luật tục (Luật tục Êđê) là những trang
    sử truyền khẩu được ghi chép lại, nó phản ánh sắc nét chân dung của một tổ
    chức xã hội mẫu hệ còn khá điển hình trên cao nguyên miền Trung nước ta
    vào những thập niên đầu thế kỷ XX” [95, 121].
    Một số chuyên khảo khác nói về luât tục được tập hợp trong sách
    “Chuyên đề về luật tục“ của Bộ Tư pháp (1997). Các bài viết nghiên cứu về
    các nội dung luật tục Êđê, như cách thức tổ chức và vận hành của luật tục;
    những quy định về hình phạt của luật tục; những yếu tố làm nền tảng cho
    luật tục; quá trình vận động và phát triển của luật tục; bản chất và giá trị
    của luật tục; luật tục, hương ước so với những quy định của bộ luật dân sự;
    luật tục Êđê với việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên; vai trò của người
    phụ nữ Êđê qua luật tục; vấn đề hôn nhân và gia đình trong luật tục Êđê
    v.v .
    Nghiên cứu về phương diện giá trị ngôn ngữ luật tục Êđê, trong số tài
    liệu mà chúng tôi tham khảo chưa có đề tài nào trùng tên với nội dung cơ bản
    của đề tài luận án. Tuy nhiên, trên thực tế tùy theo khuôn khổ của từng bài
    viết và tuỳ theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu cụ thể mà từ lâu khía cạnh này
    hay yếu tố khác về một số giá trị ngôn ngữ của luật tục Êđê cũng đã được đề
    cập. Chẳng hạn đề cập đến đặc điểm ngôn ngữ của luật tục Êđê, Ngô Đức
    Thịnh đã nhận định khái quát như sau: “Ngôn ngữ luật tục là loại văn vần, đó
    là hình thức chuyển tiếp giữa khẩu ngữ hằng ngày với ngôn ngữ thơ ca. Hình
    thức ấy làm cho người ta dễ nhớ, dễ lưu truyền để làm theo” [95, 34]. Đồng
    thời, ông cũng nói rõ hơn về hình thức và một số tính chất của lời nói vần
    trong luật tục Êđê như sau: “Hình thức văn vần (Klei duê) không chỉ có trong
    luật tục, mà còn là một hình thức phổ biến trong văn chương truyền miệng
    như khan, tục ngữ, dân ca, câu đố, . nó tạo nên hình thức ngôn từ đặc biệt.
    Thực ra klei duê là một hình thức ngôn từ đã được phát triển lên từ khẩu ngữ 9
    hằng ngày với cách nói luôn luôn ví von, so sánh, cụ thể, lặp đi lặp lại, ưa
    thích dùng ngoa ngữ để khẳng định điều muốn nói. Chính vì thế mà klei duê
    trong luật tục cũng như trong các thể loại khác của văn chương truyền miệng
    Êđê rất gần gũi với nhau. Tất nhiên, do chỗ, nó- văn vần (klei duê)- là một
    sáng tạo của cộng đồng, một biểu hiện của văn hoá thông tin nên so với khẩu
    ngữ, nó hoàn thiện hơn, chặt chẽ hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, khả năng
    truyền thụ nhậy bén hơn, ngưng đọng hơn, ấn tượng hơn” [95, 35].
    Trong bài phát biểu của mình, in trong cuốn sách “Luật tục và phát
    triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam” năm 2000 (chủ biên Ngô Đức Thịnh),
    Oscar Salemink, đại diện Quỹ Ford tại Việt Nam cho rằng: “Các văn bản luật
    tục này giống như một bài thơ dài, hay”.
    Khi biên soạn tài liệu “Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt
    Nam“ do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, tập thể biên soạn đã đưa luật tục các
    dân tộc Việt Nam vào trong tài liệu và như thế có nghĩa là họ đã xác định luật
    tục thuộc phạm trù văn học dân gian. Tuy nhiên, luật tục thuộc thể loại văn
    học nào thì các tác giả chưa chỉ ra. Về luật tục Êđê, các tác giả đã đánh giá và
    so sánh với luật tục các dân tộc khác như sau: “Luật tục của người Êđê và
    M’nông lại được cơ cấu bằng văn nói, điểm xuyết nhiều thành ngữ và tục
    ngữ, tiến bộ hơn nhiều so với bộ luật của người Xrê do J. Dournes và luật tục
    của người Gia Rai do P. B. Lafont và Phan Đăng Nhật giới thiệu, có thể sánh
    ngang, nhưng chính xác hơn, bộ luật của người Ba Na và Xơ Đăng do P.
    Guilleminet sưu tập. Ở đây ta thấy một cách thích thú những quan niệm
    mang tính xã hội, những thế ứng xử, những phong tục tập quán liên quan đến
    tín ngưỡng tôn giáo, đến hôn nhân gia đình, đến thể chế xã hội rất cần thiết
    cho các nhà làm luật và các nhà khoa học xã hội và nhân văn trong việc tìm
    hiểu xã hội cổ truyền ở Tây Nguyên“ [111, 36].
    Nhìn chung khi nêu lên quan điểm nhận xét đánh giá về phương diện
    ngôn ngữ của luật tục, các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định ngôn
    ngữ luật tục mang một số phẩm chất của ngôn ngữ văn chương truyền miệng 10
    và đã đề cập một cách khái quát về đặc điểm của yếu tố vần, yếu tố hình ảnh
    và biện pháp nghệ thuật, tuy những yếu tố này chưa được bàn sâu sắc. Ngoài
    ra, những yếu tố khác cũng thuộc bình diện ngôn ngữ, theo chúng tôi được
    biết, hiện nay vẫn chưa có bài viết nào đề cập.
    Ta có thể nhận thấy rằng, ngôn ngữ luật tục là ngôn ngữ mang một số
    phẩm chất của ngôn ngữ văn chương truyền miệng, nhưng luật tục chưa phải
    là tác phẩm văn học dân gian như những thể loại văn học dân gian trường ca
    hay tục ngữ, ca dao, dân ca, lại càng không phải như truyện cổ, thần thoại, sử
    thi.v.v . Bởi vì, tuy ngôn ngữ luật tục cũng có tính chất thẩm mỹ văn học,
    như cách thức diễn đạt, sử dụng biện pháp tu từ, hình thức trình bày.v.v . làm
    cho ngôn ngữ có tính biểu trưng, tính biểu cảm và tính hình tượng, song chức
    năng thẩm mỹ của những yếu tố này chỉ đóng vai trò phụ thuộc, thứ yếu mà
    chức năng chủ yếu của ngôn ngữ luật tục là chức năng giao tiếp, chủ yếu để
    trao đổi thông tin khi xử phạt đối với người có hành vi vi phạm luật tục.
    Trong khi đó, trong tác phẩm văn học dân gian, những yếu tố ngôn ngữ có
    chức năng thẩm mỹ được đẩy lên hàng đầu, chức năng giao tiếp được hiện
    thực hoá qua các phương tiện và yếu tố làm nên tính thẩm mỹ, từ đó mà nội
    dung giao tiếp được ghi nhận. Mặt khác, mục đích ý nghĩa của các yếu tố
    thuộc hệ thống ngôn ngữ luật tục nhằm chủ yếu hướng đến những nội dung
    có tác dụng quy định của luật tục, trong khi đó các yếu tố thuộc hệ thống
    ngôn ngữ văn học dân gian lại chủ yếu hướng tới nội dung có giá trị hình
    tượng - thẩm mỹ văn chương. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa ngôn
    ngữ luật tục và ngôn ngữ văn chương truyền miệng là: nếu như trong ngôn
    ngữ luật tục chức năng giáo tiếp được nổi lên hàng đầu và chức năng thẩm
    mỹ là thứ yếu thì ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương lại ngược lại, chức
    năng thẩm mỹ được đẩy lên hàng đầu và chức năng giáo tiếp là thứ yếu.
    Đồng thời, kết cấu nội dung tác phẩm văn học dân gian được toát lên
    từ quan hệ tổng hoà của các yếu tố thuộc tác phẩm, trong khi đó kết cấu nội 11
    dung luật tục là phép cộng đơn giản của nội dung từng điều khoản (đk) hợp
    lại mà thành.
    Nhìn chung, giữa ngôn ngữ văn chương truyền miệng Êđê và ngôn
    ngữ luật tục có những điểm tương đồng và khác biệt về cách thức sử dụng
    hình ảnh, hình tượng, từ ngữ và đặc biệt là các biện pháp tu từ, hình thức bố
    cục văn bản và cách thức trình bày v.v . Điều đáng lưu ý là ở ngôn ngữ luật
    tục Êđê tồn tại một số yếu tố đã có trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày và
    ngôn ngữ văn học dân gian, nhưng nó lại được sáng tạo phù hợp với mục
    đích, yêu cầu thể hiện nội dung ý nghĩa của luật tục. Vì thế trong ngôn ngữ
    luật tục Êđê có những yếu tố hay và đẹp riêng mà nhiều thể loại tác phẩm văn
    học dân gian khác của dân tộc Êđê không có được.
    0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng chính là phương thức so sánh trong
    văn bản luật tục Êđê.
    - Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là 236 điều khoản của luật tục Êđê,
    bằng hai thứ tiếng Việt - Êđê trong cuốn sách Luật tục Êđê (Tập quán pháp)
    của Nxb Chính trị Quốc gia (1996), do Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn và
    Nguyễn Hữu Thấu biên soạn. Đây là cuốn sách mà nội dung và ngôn ngữ có
    nhiều mặt sát hợp với thực tế đời sống hiện nay của người Êđê. Ngoài ra còn
    so sánh với luật tục Jrai, luật tục M’nông.
    Luật tục Êđê đã được ghi chép lại thành văn bản; dĩ nhiên, nó không
    khỏi chịu ảnh hưởng của người ghi chép, như nhiều nhà nghiên cứu đã nói.
    Chẳng hạn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét quá trình sưu tầm và văn bản hoá tục
    ngữ ca dao, dân ca như sau: “Tục ngữ, ca dao của ta có nhiều câu, nhiều bài
    qua nhiều thế hệ và tuỳ theo từng địa phương đã bị sửa chữa cả về hình thức
    và nội dung không còn nguyên vẹn nữa . đến khi đã được ghi chép lại thì nó
    mang phong cách từng người ghi chép.“ [70, 26].
    Đây là những nhận xét về văn học dân gian Việt Nam, nhưng theo
    chúng tôi nó cũng có giá trị chung, ít nhiều mang tính phổ quát. Văn bản luật 12
    tục Êđê đã ấn hành, theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, phản ánh khá
    trung thành hình thức ngôn ngữ khẩu ngữ toàn dân của người Êđê. Trong
    luận án của mình, chúng tôi luôn luôn chú ý đến hai mặt đó của ngôn ngữ
    luật tục Êđê. Chúng tôi còn chú ý đến nội dung dịch của sách, một số trích
    dẫn trong luận án, chúng tôi có thay đổi nội dung dịch để phù hợp với yêu
    cầu nội dung phân tích.
    Về mặt nội dung cuốn sách có 11 vấn đề được các nhà nghiên cứu sắp
    xếp ứng với 11 chương như sau:
    Chương 1. Mta eâlaâo (Những quy định mở đầu): gồm có 23 điều
    khoản (đk).
    Chương 2. Klei nga` soh ho`ng khua (Những vi phạm của các thành
    viên đối với thủ lĩnh buôn làng): gồm 33 điều khoản.
    Chương 3. Klei khua nga` soh (Những vi phạm của thủ lĩnh buôn
    làng): gồm 11 điều khoản.
    Chương 4. Klei nga` soh ho`ng jih buoân sang (Những vi phạm lợi
    ích cộng đồng): gồm 27 điều khoản.
    Chương 5. Klei bi doâk ung moâ` (Những vi phạm về hôn nhân):
    gồm 48 đk.
    Chương 6. Klei ami` ama ho`ng anak (Những vi phạm giữa cha mẹ
    và con cái): gồm 6 điều khoản.
    Chương 7. Klei eâkei mnieâ soh dih hraêm (Những vi phạm gian
    dâm): gồm 11 đk.
    Chương 8. Klei soh pro`ng (Những vi phạm nặng) (trọng tội): gồm
    21 điều khoản.
    Chương 9. Do` ngaên kdraêp (Những vi phạm về của cải, tài sản):
    gồm 38 điều khoản.
    Chương 10. Klei eâmoâ kbao bi soh ho`ng klei araêng ngaê bi
    soh ho`ng eâmoâ kbao (Những vi phạm về việc trâu bò gây thiệt hại cho
    người ta và về trâu bò bị người ta làm thiệt hai): gồm 10 điều khoản. 13
    Chương 11. Klei laên ho`ng poâ laên (Những vi phạm đối với đất
    đai và người chủ đất): gồm 8 điều khoản.
    Như vậy, vấn đề hôn nhân được chú trọng hàng đầu (48 điều khoản).
    Thứ đến là vấn đề sở hữu tài sản (36 điều khoản); nội dung thứ ba là việc bảo
    vệ người đầu làng (33 điều khoản). Số lượng các đk vào hàng thứ tư (27 điều
    khoản) đề cập việc vi phạm lợi ích cộng đồng. Những vấn đề còn lại dao
    động trong phạm vi từ khoảng trên 20 đến dưới 10 điều khoản. Về mặt hình
    thức, toàn bộ văn bản luật tục là một văn bản hoàn chỉnh. Mỗi chương, như
    cách sắp xếp gọi tên của người nghiên cứu, là một văn bản bậc dưới của luật
    tục. Đến lượt nó, mỗi chương do nhiều điều khoản hợp thành. Và mỗi điều
    khoản cũng là một văn bản bậc dưới của chương. Ta có thể hình dung điều
    khoản ở đây tương tự như một điều khoản (article) trong bộ luật, có thể gồm
    nhiều câu (sentenses) cụ thể, được liên kết với nhau về nội dung và về cơ cấu
    của một văn bản nhỏ, có mối quan hệ tương tác trong văn bản ấy. Ta có thể
    quan sát điều này qua điều khoản 29: Klei mnuih duah blu` kñi araêng
    (Việc kẻ giải quyết những vụ việc không phải thẩm quyền của mình):
    - N`u mjöt bô`ng mmao, n`u mhao bô`ng boh, baêng kboâng
    n`u ktaêl si aroh eâbua.
    Mdeâ cö` mdeâ bi co`ng, mdeâ mdro`ng mdeâ bi buoân.
    N`u duah bi tu` asaêp gieâ, n`u duah hlueâ asaêp mjaâo.
    Yang n`u duah hrô`k, ksô`k n`u duah tu`, n`u duah blu` kñi klei
    poâ mkaên.
    Anaên kthu`l n`u, maâo kñi kô n`u.
    (Hắn thèm ăn nấm, hắn thèm ăn quả, miệng của hắn ngứa ngáy như
    ăn phải củ môn.
    Không chịu thừa nhận núi nào thì ngọn ấy, làng nào thì tù trưởng ấy.
    Hắn mưu toan lấy lời của người phù thuỷ, hắn mưu toan lấy lời của
    người bói sãi cây. 14
    Thần hắn mượn tiếng, quỷ hắn mượn oai, hắn đã giải quyết những vụ
    việc không phải thẩm quyền của mình.
    Vậy hắn có tội, có việc đưa ra xét xử hắn)
    Xuất phát từ thực tế đó mà trong khi khảo sát và phân tích một câu cụ
    thể bất kỳ có thể thiếu thành tố này hay thành tố khác ta có thể dựa vào văn
    bản là một điều khoản để khôi phục và để hiểu toàn câu. Ví dụ điều khoản
    233, tr. 224: Klei hrieâ tir, hrieâ cuaê laên (Nhiệm vụ đi thăm đất đai của
    người chủ đất) như sau:
    - Hrieâ kô lip kñông, knguoâr kño`ng, kô ro`ng aeâ aduoâm. (1)
    Chön eângueâ ciaêng laên bi mda, eâa bi mraâo, mtei kbaâo bi
    jaêk caêk jing.(2)
    Nga` aseh amaâo maâo poâ, nga` eâmoâ amaâo maâo poâ
    mga`t deh. (3)
    Bhiaên mô`ng muk mô`ng kei, mô`ng aeâ aduoân, mô`ng ñöm
    bhiaên sônaên. (4)
    Kjuh thu`n hmei hrieâ chön kô di ih sa bliö`. (5)
    (Nhiệm vụ của người chủ đất là) phải đi thăm cái nong, cái nia, cái
    lưng của ông bà.(1)
    Đi thăm là để đất đai mãi mãi tốt tươi, để nước không ngừng chảy, để
    chuối mía mọc xum xuê. (2)
    (Đất) nào phải đâu như con ngựa không chủ, như con bò không người
    chăn. (3)
    Đó là tập quán từ xưa, từ đời bà, đời ông từ các tổ tiên xưa cũ. (4)
    Cứ bảy năm, chúng tôi (người chủ đất) lại đến thăm bà con một lần.
    (5)
    Nghĩa của 5 câu trong điều khoản trên đây có quan hệ với nhau. Nếu
    câu (1), (2), (3) đem xét độc lập thì không thể nắm được nghĩa chính của câu
    văn, bởi đó là những câu mà người ta nói theo cách ẩn dụ và cách nói so sánh
    thiếu thành tố trong cấu trúc: câu (3) vắng thành tố TTĐ/BSS và TTQHSS.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...