Chuyên Đề Phương pháp tính giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, GIÁ TRỊ TĂNG THÊM CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP


    CHẾ BIẾN VIỆT NAM
    I. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI KHOẢN QUỐC GIA (SNA), GIÁ TRỊ SẢN XUẤT, GIÁ TRỊ TĂNG THÊM
    1. Về Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
    1.1. Quá trình vận dụng vào Việt Nam
    Trong xu thế hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc giao lưu giữa các nước ngày càng mở rộng, không gian ngày càng rút ngắn lại do tiến bộ của vận tải, thông tin. Nhu cầu cấp thiết về thông tin ngày càng quan trọng trong lĩnh vực quản lý tầm vĩ mô, cũng như trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, đường lối mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước của Đảng và Nhà nước đang tạo cơ sở khách quan cho các doanh nghiệp tiếp cận với thông tin công nghệ trên thế giới.
    Việc đổi mới từ nền kinh tế vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của các doanh nghiệp trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân phải có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Đồng thời, việc đánh giá hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp cũng phải được tăng cường và đổi mới. Không thể chỉ dựa vào kế hoạch sản xuất đủ số lượng sản phẩm mà còn phải chú ý đến chất lượng, mẫu mã của từng loại sản phẩm. Có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có thể hoà nhập được vào các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Để đạt được điều này, đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ thông tin.
    Trong cơ chế thị trường ngày nay, yêu cầu thông tin nhanh, chính xác lại càng quan trọng đối với quản lý sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô cũng như tầm vi mô. Thông tin thống kê có vai trò hết sức quan trọng đối với việc quản lý của doanh nghiệp và đánh giá tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc quyết định sự ra đời, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp cần phải có những thông tin thống kê đầy đủ, chính xác và khoa học.
    Thông tin thống kê được phản ánh qua các chỉ tiêu thống kê. Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Như Lênin nói, các chỉ tiêu thống kê có thể giải thích bản chất và phản ánh các hiện tượng kinh tế xã hội, có ý nghĩa chứng minh sự phát triển của các hiện tượng đó”.
    Để thống kê được đúng các chỉ tiêu kinh tế, phục vụ đắc lực cho quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường sôi động, ngành Thống kê đã căn cứ vào cơ sở lý luận của kinh tế học. Kinh tế học giải thích rõ phạm trù sản xuất, các hình thái sản phẩm, kết quả của quá trình sản xuất, quá trình vận động của sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng . những khái niệm về thu nhập, phân phối, tích luỹ, tiêu dùng, những phạm trù đầu tư, hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư . đã được kinh tế học làm sáng tỏ. Trên cơ sở đó, thống kê mới tính toán các chỉ tiêu, phân tích các mối quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đầy đủ, chính xác phục vụ kịp thời cho việc điều hành, quản lý đồng thời hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội trong tương lai phù hợp với khả năng của đất nước, thoả mãn nhu cầu trong quan hệ ngoại giao với bên ngoài.
    Nhìn chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ đều rất phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều giai đoạn mới có được sản phẩm hoàn chỉnh đem trao đổi trên thị trường. Vì vậy, để tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê giúp cho việc thu thập thông tin dễ dàng có tính chính xác cao, phục vụ tốt các yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, của các ngành kinh tế quốc dân và của Nhà nước.
    Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu thống kê, có thể phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt tổng thể và mối liên hệ của tổng thể với các hiện tượng liên quan.
    Hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế mỗi nước được xây dựng phù hợp với yêu cầu của lý thuyết hệ thống, yêu cầu của so sánh quốc tế, tính hiện đại và tính khả thi. Hệ thống chỉ tiêu thống kê có thể thay đổi bổ sung về mặt số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ hạch toán ở mỗi thời kỳ.
    Từ sau những năm 20 đến năm 1992, trên thế giới có 2 hệ thống thông tin kinh tế - xã hội tổng hợp: Hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) và Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).
    Cả hai hệ thống thông tin kinh tế - xã hội tổng hợp trên có cùng mục đích phản ánh quá trình tái sản xuất xã hội của mỗi quốc gia. Trên cơ sở thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin trên tầm vĩ mô để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhằm phản ánh điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất, quá trình phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế trong quá trình sản xuất và sử dụng cuối cùng kết quả sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, áp dụng hệ thống nào là phụ thuộc vào trình độ hạch toán ở quốc gia đó và tuỳ thuộc vào từng thời kỳ.
    Ở Việt Nam từ 1954-1975, đất nước bị chia cắt làm 2 miền Bắc - Nam thuộc 2 chế độ chính trị khác nhau. Trình độ thống kê và phương pháp thống kê giữa 2 miền có sự khác nhau. Ở miền Bắc, được sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa trong đó chủ yếu là Liên Xô cho nên ngành thống kê trong giai đoạn này đã chịu ảnh hưởng của các nước trên. Cụ thể, ngành thống kê Việt Nam đã tiến hành tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như: Sản phẩm xã hội, tiêu hao vật chất, thu nhập quốc dân, quỹ tiêu dùng, quỹ tích luỹ, xuất nhập khẩu hàng hoá . Trên cơ sở đó, lập bảng cân đối sản xuất và sử dụng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và một số bảng cân đối khác thuộc hệ thống MPS.
    Ở miền Nam trong giai đoạn này, Viện Thống kê thuộc chính quyền Miền Nam tiến hành tính một số chỉ tiêu kinh tế quốc dân như: Tổng sản phẩm quốc gia (GNP), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ . theo SNA cho phạm vi cả miền Nam.
    Từ năm 1976-1988, đất nước thống nhất, ngành Thống kê đã tiến hành tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và lập một số bảng cân đối thuộc MPS cho cả nước và cho tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
    Từ 1989-1992, ngành Thống kê được sự tài trợ của các cơ quan thống kê Liên hợp quốc tiến hành nghiên cứu và vận dụng SNA vào Việt Nam. Ngày 25/12/1992, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số: 183-TTg về việc Việt Nam chính thức áp dụng SNA và tính chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội trong phạm vi cả nước, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay cho MPS và chỉ tiêu thu nhập quốc dân đã thực hiện trong thời gian trước đây. Sau một số năm thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc vận dụng Hệ thống tài khoản quốc gia vào Việt Nam, ngành Thống kê đã tính toán được một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như: Tổng sản phẩm quốc nội, tích luỹ tài sản, tiêu dùng cuối cùng, tổng thu nhập quốc gia (GNI), để dành và lập được một số tài khoản chủ yếu phục vụ yêu cầu quản lý ở tầm vĩ mô của Đảng và Nhà nước. Song, cơ sở số liệu ban đầu chưa đầy đủ, hệ thống hạch toán thống kê chưa cải tiến để phù hợp với nội dung các chỉ tiêu trong Hệ thống tài khoản quốc gia nên mức độ chính xác và đầy đủ của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp còn hạn chế. Những kết quả đạt được cần phải hoàn thiện dần trong một số năm tới.
    Để khắc phục những nhược điểm trên, năm 1996-1998, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã có dự án trợ giúp cho ngành thống kê hoàn thiện Hệ thống tài khoản quốc gia. Cơ quan ADB đã cử ngài Francisco T. Secretario, cố vấn trưởng cùng các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm đến trực tiếp giúp Việt Nam xây dựng cơ sở dữ liệu, nhằm nâng cao độ tin cậy của chỉ tiêu GDP và hoàn thiện thêm một bước Hệ thống tài khoản quốc gia đang thực hiện ở Việt Nam. Đây cũng là một trong những đóng góp tích cực, to lớn có hiệu quả thiết thực của các tổ chức quốc tế để thúc đẩy công tác thống kê tài khoản quốc gia ở Việt Nam. Với sự giúp đỡ của chuyên gia ADB, các chuyên viên thống kê tài khoản quốc gia Việt Nam đã đưa ra những vấn đề cơ bản nhất của Hệ thống tài khoản quốc gia, xác định nội dung, phương pháp và nguồn thông tin để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống tài khoản quốc gia do Thống kê Liên hợp quốc mới soạn thảo năm 1993 và được vận dụng một phần vào Việt Nam. Căn cứ vào chế độ kế toán hiện hành đang áp dụng cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh của tất cả các lĩnh vực, kết quả báo cáo thống kê và điều tra thống kê . để giới thiệu cụ thể cơ sở thông tin phục vụ cho việc tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và lập các tài khoản chủ yếu đang được thực hiện ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã chính thức đưa Hệ thống tài khoản quốc gia vào sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp, các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần phải hiểu rõ hơn về SNA để tiện lợi cho việc quản lý cũng như cho việc hoạch định sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo.
    NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ 01699421922
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...