Tiểu Luận Phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. Lý do chọn đề tài.
    Trong thời gian qua, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đề cập và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục, giáo viên trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung đều khẳng định, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
    Với quan điểm đó, trong những năm qua đã dấy lên một cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường phổ thông nói riêng. Đồng thời nhiều đợt tập huấn, hội thảo đổi mới phương pháp dạy học đã được tổ chức ở những cấp độ khác nhau, nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên. Từ đó đã có nhiều phương pháp mới đã được giáo viên ứng dụng trong việc dạy học và đã dấy lên một phong trào thi đua dạy học, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn trong đội ngũ giáo viên ở các trường học. Những hoạt động trên đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian qua.
    Với tình hình chung, đổi mới phương pháp giảng dạy của bộ môn Lịch sử cũng đã được sự quan tâm đúng mức. Nhiều phương pháp mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã được sử dụng, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong dạy học.
    Cũng phải thấy rằng, việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử là sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn của cả hệ thống phương pháp, mỗi phương pháp đều có vai trò nhất định riêng. Trong đó phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử phục vụ cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, bởi lẽ:
    Kênh hình trong sách giáo khoa không những minh hoạ, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh, vì một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để bỏ ngỏ, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ . để tìm tòi, khám phá những kiến thức mới, cần thiết liên quan đến nội dung bài học. Ngoài ra việc khai thác tốt kênh hình sẽ tạo nên một không gian sinh động trong giờ học, giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức và học sinh sẽ nhớ kĩ, hiểu sâu hơn những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, còn góp phần phát triển kĩ năng quan sát, phân tích, nhận xét, đánh giá và tư duy ngôn ngữ cho học sinh .
    Tuy nhiên, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm phát huy đúng vị trí, vai trò của kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử thì kĩ năng khai thác kênh hình của giáo viên đóng vai trò quyết định. Vì vậy nắm được những kĩ năng cơ bản để khai thác kênh hình sách giáo khoa phục vụ cho việc giảng dạy là sự cần thiết về chuyên môn của giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng hiện nay.
    Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, bản thân tôi xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về việc: khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh.
    Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
    II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
    Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng đến chính là khơi dậy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh, thông qua các kênh hình về các bản đồ, sơ đồ, về các nhân vật lịch sử cũng như về các sự kiện lịch sử của Việt Nam và thế giới, học sinh được khắc sâu và ghi nhớ những nội dung của bài học. Từ đó các em có những hiểu biết nhất định về lịch sử của nhân loại, lịch sử của thế giới, thêm yêu quý và tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, tôn thờ và ngưỡng mộ những danh nhân thế giới nói chung và danh nhân Việt Nam nói riêng.
    III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
    Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tất cả học sinh các khối lớp 6, 7, 8, 9 của trường THCS Hồ Tùng Mậu trong những năm học vừa qua.
    Đề tài này tôi đã, đang và sẽ được áp dụng vào quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Hồ Tùng Mậu với tất cả các khối lớp. Bên cạnh có thể áp dụng phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học cho một số môn học khác như Văn học, Địa lý, Sinh học, GDCD
    IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
    Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: khai thác, phân tích nội dung và ý nghĩa của kênh hình trong sách giáo khoa và cả những kênh hình sưu tầm bên ngoài có liên quan vào bài học Lịch sử một cách phù hợp để tăng tính hấp dẫn trong giờ học Lịch sử, góp phần phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử bậc trung học cơ sở.
    Kết hợp việc sử dụng bản đồ, lược đồ và các hình ảnh minh họa để phân tích về một nhân vật lịch sử, một trận đánh hay một sự kiện lịch sử mà giáo viên đang trình bày giúp giáo viên gây được hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học. Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết quả cao hơn.
    Biện pháp tuy có thể nói không mới lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn trong quá trình học.
    Dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng yêu cầu người giáo viên phải biết sử dụng linh hoạt các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng yêu cầu học sinh phải phân tích kỹ tất cả các kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử. Nếu học sinh chưa hiểu bài, chưa trình bày được lược đồ, chưa phân tích được sự kiện sẽ làm mất thời gian. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm khi dạy học lịch sử. Biết đọc bản đồ, biết tường thuật trận đánh, biết phân tích nội dung của kênh hình và phải biết hướng dẫn học sinh nắm được những nội dung của bài học thông qua kênh hình đó. Từ đó biết phân tích, nhận xét, đánh giá sự các kiện lịch sử.
    V. Phương pháp nghiên cứu.
    Để tiến hành thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
    + Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ về “ Phương pháp dạy học Lịch sử”
    + Nghiên cứu các loại sách tham khảo, sách giáo khoa Lịch sử lớp 6, 7, 8, 9; sách chuẩn kiến thức kỹ năng và các nguồn thông tin khác.
    + Sưu tầm thêm các bản đồ, lược đồ, các tranh ảnh liên quan đến nội dung của đề tài.
    + Phương pháp so sánh, đối chiếu.
    + Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy.
    + Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
    + Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.
    + Kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh.
    B. PHN NỘI DUNG:
    I. Cơ sở lý luận.
    Bộ môn Lịch sử với những đặc trưng riêng của nó có vai trò và tác động to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy nhiên ngày nay việc học sinh không thích học cũng như tìm hiểu về lịch sử dân tộc ngày càng nhiều. Nhiều em cho rằng đây là một môn học thuộc lòng mất nhiều thời gian lại khô khan, nhàm chán. Thiếu hiểu biết lịch sử là điều vô cùng nguy hiểm khi văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam hội nhập với văn hóa và con người của nhiều dân tộc trên thế giới.
    Vậy tại sao học sinh lại thiếu hiểu biết và không thích học Lịch sử? Cũng có nhiều nguyên nhân. Song không thể phủ nhận nguyên nhân xuất phát từ việc dạy và học Lịch sử của chúng ta từ trước đến nay còn nặng về cung cấp kiến thức gây ra tình trạng quá tải cho học sinh.
    Do đặc điểm của việc nhận thức Lịch sử là không trực tiếp quan sát sự kiện, nhân vật quá khứ nên việc tạo biểu tượng là một yêu cầu quan trọng trong dạy học bộ môn. Biểu tượng lịch sử là hình ảnh chân thực của quá khứ về hiện thực quá khứ được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất.
    Việc khai thác kênh hình trong sách giáo khoa là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học, tuy nhiên nó chưa được quan tâm một cách đầy đủ.
    Chúng ta mới chỉ quan tâm đến kênh chữ nhiều hơn mà không nhận thấy kênh hình không những là nguồn kiến thức quan trọng mà nó còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Trong các buổi bồi dưỡng thay sách giáo viên mới chỉ được giải thích về kênh chữ, nội dung, phương pháp mà chưa được bồi dưỡng cụ thể về kênh hình. Có nhiều kênh hình mới mà giáo viên chưa thật nắm rõ về xuất xứ cũng như nội dung của nó.
    Nhiều giáo viên còn ngại sử dụng kênh hình do sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng thì chỉ mạng tính chất minh họa cho bài giảng nên chưa phát huy được hết hiệu quả của nó.
    Vậy với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, bằng thực tiễn giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp cũng như tự nghiên cứu tài liệu, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến chủ quan về việc sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử ở bậc THCS.
    II. Thực trạng:
    1. Thuận lợi, khó khăn.
    * Thuận lợi:
    Từ năm học 2012-2013 phòng Giáo dục huyện Buôn Đôn đã thành lập các cụm chuyên môn để tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội trao đổi phương pháp giảng dạy, học tập, rút kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác chuyên môn giữa các giáo viên cùng bộ môn trong toàn huyện.
    Đại đa số giáo viên đều tích cực tìm kiếm những thông tin bổ ích có liên quan đến nội dung bài dạy như tranh ảnh, tư liệu, phim tài liệu, truyện kể về lịch sử .Đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan, phương pháp nêu tình huống và giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử
    Đa số học sinh đều tích cực hào hứng muốn được tự mình khám phá nội dung của bản đồ, lược đồ, muốn được nêu ý nghĩa hoặc phân tích nội dung các bức tranh nên đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức thông qua các kênh hình trong sách giáo khoa và những kênh hình mà giáo viên sưu tầm được.
    * Khó khăn:
    Ở trường THCS một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử .còn yếu. Nhiều em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà chỉ đọc nguyên xi trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được diễn biến sự việc mà không lí giải được vì sao nó lại diễn ra như thế hay sự kiện đó nói lên điều gì. Bởi vậy, bản thân các em nên có một phương pháp học tích cực để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên.
    Mặt khác giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường một phần nào đó chưa gây được sự hứng thú, tìm tòi và khám phá cho học sinh trong việc học bộ môn, cho nên nhiều học sinh chán ghét bộ môn và học chỉ để đối phó dẫn đến chất lượng kiểm tra một số em ở một số lớp còn thấp. Nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy và học của của bộ môn, bản thân tôi đã thấy được điều đó và cố gắng đưa ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: tích cực sưu tầm tranh ảnh tư liệu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng và luôn tìm tòi những phương pháp để khai thác kênh hình một cách hiệu quả nhất.
    2. Thành công, hạn chế.
    * Thành công:
    Về phía giáo viên:
    Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động đọc bản đồ, phân tích nội dung tranh ảnh, cho các em sưu tầm các hình ảnh có liên quan trong giờ học những bạn yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn học sinh khá giỏi, học sinh trung bình sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử .
    Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, phim đèn chiếu, phim vi deo .và ứng dụng thành thạo công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học Lịch sử.
    Về phía học sinh:
    Học sinh đa số chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn. Và đặc biệt nhiều em thích được lên bảng trình bày trên lược đồ, bản đồ, thích được khám phá nội dung tranh ảnh để hiểu được nội dung bài học.
    Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo khoa. Các em đã mạnh dạn hăng hái xung phong lên bảng và sẵn sàng ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, đây là một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
    * Hạn chế:
    Về phía giáo viên:
    Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe ”, thuyết trình một chiều . Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn .
    Một số tiết học giáo viên chỉ huy động một số học sinh khá, giỏi trình bày lược đồ, bản đồ và khám phá tranh ảnh mà chưa giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học.
    Nhìn chung thời giai qua, ít nhiều giáo viên đã khai thác kênh hình sách giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều phương tiện khác nhau và phương pháp khác nhau . Do đó, kết quả đạt được ở những mức độ không đồng đều. Thực tế như sau:
    - Một bộ phận giáo viên nhận thấy vai trò, ý nghĩa của kênh hình và đã vận dụng vào bài giảng đạt hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục.
    - Không ít giáo viên hiểu chưa hết nội dung, ý nghĩa của các kênh hình, nên chưa vận dụng đúng đắn vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả bài giảng không cao.
    - Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình nhưng lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức, minh hoạ cho bài giảng.
    - Có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, có nội dung liên quan đến kênh hình trong sách giáo khoa, nhưng chỉ mang tính giới thiệu, chứ chưa mang tính chất khai thác để nâng cao chất lượng dạy học.
    Sở dĩ có tình hình trên, phần lớn là do sự hạn chế của giáo viên về kĩ năng khai thác kênh hình.
    Về phía học sinh:
    Một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, không sưu tầm tài liệu và các tranh ảnh có liên quan, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc phân tích và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn rất hạn chế.
    3. Mặt mạnh, mặt yếu
    Sách giáo khoa Lịch sử mới được trình bày đẹp hơn, dễ nhìn, đồng thời có lưu ý đến việc đảm bảo kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn. Hơn nữa, sách giáo khoa còn đảm bảo tính liên môn sao cho các môn học hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt sách giáo khoa Lịch sử có nội dung song hành giữa Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới, là một sự tiến bộ so với sách giáo khoa cũ. Đồng thời, trong khi sách giáo khoa cũ chỉ chú trọng đến kênh chữ, kênh hình rất ít và chỉ mang tính chất minh họa, thì sách giáo khoa mới đã khắc phục được hạn chế này.
    Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử thì sách giáo khoa Lịch sử cũng có nhiều đổi mới. Đặc biệt là bên cạnh kênh chữ thì số lượng kênh hình cũng được tăng lên đáng kể.
    Trước đây nếu như kênh hình chỉ được dùng để minh họa cho bài học thì nay nó là nguồn kiến thức cho học sinh tự nghiên cứu và khám phá kiến thức mới, nó cũng là cơ sở để tạo biểu tượng lịch sử.
    Với sự đổi mới này thì học sinh thông qua việc làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, bản đồ để phát hiện kiến thức liên quan đến nội dung bài học mà học sinh cần nắm được.
    Tuy nhiên kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay vẫn còn quá ít so với mức độ kiến thức cần đạt của bài và màu sắc chỉ là trắng đen, khá mờ nhạt, không có nhiều hình ảnh nổi bật và ảnh màu như các sách giáo khoa Địa lý, Sinh học hay Vật lý
    4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
    Chúng ta đều nhận thấy rằng điểm thi môn Lịch sử của học sinh phổ thông trung học và thi tuyển vào các trường cao đẳng đại học trong thời gian vừa qua quá thấp, đã là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những người làm giáo dục. Có nhiều ý kiến đổ lỗi do chương trình, sách giáo khoa Lịch sử chưa được hoàn chỉnh. Sách còn đề cập tới quá nhiều vấn đề nhưng thời gian trong một tiết học 45 phút không đủ để truyền tải .Và những kiến thức trong sách giáo khoa, sách chuẩn kiến thức kỹ năng được xem là phần cứng của giáo trình, giáo viên không được tùy tiện sửa đổi, điều này cũng khiến giáo viên thụ động hoàn toàn khi lên lớp.
    Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên đứng lớp ở bậc THCS vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế hiện nay cho thấy, giáo viên hầu hết đã được đào tạo chuẩn và trên chuẩn, nhưng tâm huyết với quá trình giảng dạy và sự đầu tư cho bộ môn như thế nào là điều cần phải xét lại. Những lý do trên phần nào lý giải vì sao giờ lên lớp môn Lịch sử của một số giáo viên đơn điệu, thiếu hấp dẫn. Nhiều người cho rằng, do thời gian, điều kiện và cũng là yêu cầu của nội dung bài giảng nên họ chỉ có thể truyền đạt lại cho học sinh những nội dung cơ bản của chuẩn kiến thức kỹ năng và sách giáo khoa là đủ.
    Một trong những nguyên nhân của việc dạy và học Lịch sử kém hiệu quả nữa là học sinh không ham mê môn học này là do việc học của học sinh lâu nay là học chay và dạy chay. Chỉ đơn cử như việc cho học sinh xem phim tài liệu về lịch sử cũng là rất hạn chế chứ chưa nói đến việc đi thực tế tại các địa danh lịch sử. Lên lớp giáo viên cũng khuyến khích học sinh đối thoại, nhưng tư liệu tham khảo thì lại quá thiếu, thế nên dù muốn, học sinh cũng khó có thể tìm đọc và thảo luận theo yêu cầu của giáo viên. Bên cạnh đó, nhiều học sinh và phụ huynh vẫn coi Lịch sử là môn phụ nên rất xem thường.
    Để có nhiều kênh hình phù hợp với nội dung bài học thì đòi hỏi người giáo viên và cả các em học sinh phải dày công tìm kiếm, sưu tầm, chắt lọc và xử lý các hình ảnh có được, đó là điều không hề đơn giản và không phải ai cũng có thể làm được vì cuộc sống còn bộn bề lo toan. Có nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài, có nhiều điều chi phối khiến cho người giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư cho bài giảng.
    III. Giải pháp, biện pháp.
    1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
    Nhiều năm qua bức xúc trước vấn đề học sinh không hiểu gì về lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc mình và đặc biệt những năm gần đây tình trạng học sinh thi vào các trường đại học tỉ lệ điểm thấp ở bộ môn Lịch sử là rất nhiều. Điều này không chỉ riêng tôi mà rất rất nhiều giáo viên nói chung và giáo viên bộ môn Lịch sử nói riêng, các cấp quản lí phải lưu tâm và suy nghĩ. Do đó tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân để góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung. Việc vận dụng các phương pháp, kỹ năng khai thác kênh hình vào giảng dạy Lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học Lịch sử, tìm hiểu Lịch sử, nhận thức Lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn Lịch sử nói riêng.
    Các kênh hình về bản đồ lịch sử, về nhân vật lịch sử với ưu thế của nó: rõ ràng, sinh động, dễ nhớ, dễ ấn tượng, dễ đi vào lòng người sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống tổ tiên, với các lãnh tụ, các danh nhân cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà cũng như lịch sử văn minh nhân loại.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD]


    MỤC LỤC


    A. PHẦN MỞ ĐẦU:
    I. Lý do chọn đề tài.
    II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
    III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
    IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
    V. Phương pháp nghiên cứu.


    B. PHẦN NỘI DUNG:
    I. Cơ sở lý luận
    II. Thực trạng
    1. Thuận lợi, khó khăn
    2. Thành công, hạn chế
    3. Mặt mạnh, mặt yếu
    4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
    III. Giải pháp, biện pháp
    1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
    2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
    2.1. Kỹ năng khai thác kênh hình
    2.2. Nguyên tắc khai thác kênh hình
    2.3. Ứng dụng cụ thể
    3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
    4. Mối liên hệ giữa giải pháp, biện pháp
    5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
    IV. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.

    C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
    I. Kết luận
    II. Kiến nghị

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...