Tài liệu Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Thảo luận trong 'Ngoại Thương - Du Lịch' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

    I. T́m hiểu về kinh tế đối ngoại
    1.1. Kinh tế đối ngoại là ǵ?
    ktđn của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác c̣n lại hoặc với các tổ chức quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều h́nh thức, h́nh thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
    Mặc dù kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm có quan hệ với nhau, song không nên đồng nhất chúng với nhau. Ktđn là quan hệ mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài – với nước khác hoặc tổ chức kinh tế quốc tế khác. C̣n kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước với nhau, là tổng thÓ quan hệ kinh tế của cộng đồng quốc tế
    “ĐÈy nhanh quá tŕnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” là một chủ trương sáng suốt của Đại Hội VIII của Đảng ta, thể hiện tầm nh́n chiến lược, tư duy khoa học, phù hợp với nhu cầu của đất nước hiện nay và thực tiễn của thời đại. Quả thật, trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá sôi động hiện nay, kinh tế quốc tế là sản phẩm tất yếu, khách quan khi lực lượng sản xuất đạt tŕnh độ quốc tế hoá rất cao, khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc, kinh tế thị trường trở nên phổ cập.
    Việt Nam đă, đang và sẽ tiếp tục vận dụng xu thế toàn cầu hoá và chủ động hội nhập quốc tế, để tranh thủ những khả năng có lợi trên thị trường thế giới, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế theo định hướng XHCN, vừa chống nguy cơ tụt hậu, vừa thu hẹp khoảng cách về tiềm lực kinh tế so với các nước khác. Nói đến hội nhập kinh tế quốc tế không thể không nói đến hoạt động kinh tế đối ngoại (KTĐN), KTĐN đang trở thành một bộ phận ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt với một nước đang phát triển theo kinh tế thị trường XHCN như nước ta với đầy khó khăn và thách thức. Phát triển KTĐN một cách có hiệu quả là giải pháp cơ bản trong quá tŕnh Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam với mong muốn xây dựng một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, văn minh” đă có những bước đi thích hợp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả ktđn. Nhưng bên cạnh đó c̣n có không Ưt những hạn chế, những sai lầm cần nhanh chóng sửa đổi cho hợp với quy luật và t́nh h́nh mới.
    Ktđn nước ta được phát triển trong điều kiện hội nhập, trong quá tŕnh vận động kinh tế mang tính toàn cầu. V́ vậy, hiểu một cách khái quát về khái niệm toàn cầu hoá là cơ sở đánh giá hoạt động KTĐN của nước ta hiện nay. Khái niệm toàn cầu hoá kinh tế (tchkt) xuất hiện và được nói đến từ thập kỷ 70 trở lại đây, và có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm này. Có thể nói tchkt xu hướng đi tới h́nh thành một nền kinh tế Thế Giới thống nhất trên phạm vi toàn cầu, trong đó có sự tham gia của tất cả các quốc gia trên Thế Giới. Các quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và hợp tác kinh tế trên phạm vi toàn cầu, có sự lưu thông các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân lực trên phạm vi toàn cầu, dưới sự điều tiết của những quy tắc chung toàn cầu. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, đồng thời vẫn độc lập về chính trị và xă hội.
    Qua đó ta đă hiểu được phần nào sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả ktđn, kinh tế quốc tế, nhưng để hiểu kỹ hơn sự cần thiết đó chúng ta cùng t́m hiểu cơ sở khách quan của việc h́nh thành và phát triển KTĐN và vai tṛ, tác dụng của nó đối với cnh – hđh, đối với công cuộc phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
    I.2. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐNI.2.1. Cơ sở khách quan của việc h́nh thành và phát triển KTĐNa. Phân công lao động quốc tế
    Phân công lao động quốc tế xuất hiện như là một hệ quả tất yếu của phân công lao động xă hội phát triển vượt khuôn khổ mỗi quốc gia, là kết quả của quá tŕnh phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất xă hội, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh tế hàng hoá, mở rộng thương mại quốc tế. Nó diễn ra giữa các ngành, giữa những người sản xuất của những nước khác nhau và thể hiện nh­ là một h́nh thức đặc biệt của sự phân công lao động theo lănh thổ, diễn ra trên phạm vi Thế Giới.
    Có thể nói phân công lao động quốc tế là quá tŕnh tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học, công nghệ và xă hội để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế.
    Đặc biệt với những xu thế mới hiện nay của phân công lao động quốc tế càng thúc đẩy mối quan hệ giữa các nước, các tổ chức kinh tế
    chặt chẽ hơn đ̣i hỏi các quốc gia phải có mối liên hệ khăng khít và sâu rộng trong hợp tác hữu nghị, tức là phải đẩy mạnh ktđn của mỗi quốc gia.
    b. Lư thuyết về lợi thế – cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế:
    Trong các quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế là h́nh thức xuất hiện rất lâu đời, song nó bắt nguồn từ đâu và trong trao đổi bên nào là được lợi? Lư thuyết về lợi thế góp phần trả lời câu hỏi này.
    AdamSmith đă đưa ra lư thuyết lợi thế tuyệt đối trong thương mại quốc tế xác định lợi thế xuất nhập khẩu của một quốc gia dựa trên hao phí lao động/ một đơn vị sản phẩm. David Ricacdo nhận xét lư thuyết tuyệt đối mới chỉ giải thích được một phần nhỏ sự phân công lao động và thương mại quốc tế và đưa ra lư thuyết lợi thế tương đối. Lư thuyết tương đối của ông dựa trên chỉ tiêu so sánh chi phí cơ hội O.C. Theo đó một quốc gia, một dân tộc dù có hiệu quả thấp hơn so với các dân tộc khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, vẫn có cơ sở cho phép tham gia vào sự phân công lao động và thương mại quốc tế. áp dông lư thuyết này vào Việt Nam ta khẳng định Việt Nam có nhiều cơ hội và có nhiều lợi thế, hoàn toàn có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế nếu biết lợi dụng sự chênh lệch về tiền lương và theo đó là tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền nội tệ và ngoại tệ khi thực hiện trao đổi quốc tế. V́ thế chúng ta cần lợi dụng một cách triệt để lợi thế so sánh của dân tộc góp phần vào phân công lao động và thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả của ktđn.
    Không những thế, xu hướng phát triển của thị trường Thế Giới hiện nay cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược phát triển ktđn của nước ta.
    c. Xu thế thị trường Thế Giới:
    Có mét số những biểu hiện cơ bản sau:
    - Thương mại các ngành tăng lên rơ rệt: cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phân công quốc tế đă có sự thay đổi rất lớn về h́nh thức, chủ yếu ở sự phân công giữa các ngành từng bước chuyển sang phân công nội bộ ngành với chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc.
    - Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng.
    - thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng.
    - Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực do cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt đ̣i hỏi các nước hợp tác cùng phát triển, tránh bị tụt hậu, phá sản và do khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô Thế Giới, những tranh chấp quốc tế ngày càng gia tăng. Điều này vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế Thế Giới, vừa có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là đối với những nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển.
    Tóm lại, sự h́nh thành và phát triển KTĐN mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định lựa chọn các h́nh thức KTĐN, diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và được biểu hiện rơ nhất ở xu thế phát triển của thị trường Thế Giới trong mấy thập niên gần đây.
    1.2.2.Vai tṛ to lớn của KTĐNKTĐN với nhiều h́nh thức khác nhau, tác động lên nền kinh tế trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể khái quát vai tṛ to lớn của KTĐN qua các mặt sau đây:
    - Trước hết KTĐN góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường Thế Giới và khu vực.
    - Hoạt động KTĐN góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ Thế Giới (ODA); thu hót khoa học kỹ thuật, công nghệ, khai thác và sử dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lư nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
    - Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
    - Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập , ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu của Đảng và Chính Phủ: “dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
    - Khi quan hệ KTĐN được duy tŕ và phát triển tốt, song song với việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH ta c̣n mở rộng giao lưu, tiếp nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại để xây dựng, phát triển một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời góp phần tạo ra môi trường xung quanh ổn định, bảo đảm vững chắc cho an ninh quốc pḥng của đất nước, giữ vững chủ quyền quốc gia dân tộc. Thông qua đó chúng ta thực hiện được chiến lược đan xen, có đủ tiềm lực kinh tế để xây dựng tiềm lực và thế trận quốc pḥng an ninh, tạo môi trường an ninh quốc gia ổn định hơn.
    Tuy nhiên để KTĐN phát huy được hết những vai tṛ của ḿnh đ̣i hỏi KTĐN phải có những hướng đi đúng đắn nhằm vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá, mặt trái của kinh tế thị trường, giữ vững định hướng XHCN.
    1.3.Những h́nh thức chủ yếu của KTĐN KTĐN gồm nhiều h́nh thức như hợp tác sản xuất (nhận gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kỹ thuật cao); hợp tác khoa học – công nghệ (trong đó có h́nh thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương, hợp tác tín dụng quốc tế; các hoạt động du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu, đổi và chuyển giao ngoại tệ ; đầu tư quốc tế;
    Trong các h́nh thức KTĐN, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những h́nh thức chủ yếu và có hiệu quả nhất cần được coi trọng. Và ở Việt Nam, trong chiến lược phát triển KTĐN, những h́nh thức trên được chú trọng phát triển do đó trong bài viết này em chỉ đi sâu đề cập những h́nh thức này.
    II.Thực trạng và giải phápII.1. Sù thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam Trong lịch sử phát triển của kinh tế Thế Giới, chưa bao giờ lại có sự hợp tác để phát triển rộng răi, đan xen, lồng ghép và nhiều tầng bậc như hiện nay, điều này tạo ra mét xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại: “Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá tŕnh hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và mở rộng KTĐN” (văn kiện Đại Hội Đảng Viii), Việt Nam không thể đứng ngoài ḍng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam có những chuyển biến, thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại nhằm phát triển đất nước.
    Trước năm 1986 Việt Nam thực thi một nền kinh tế bao cấp, tự cung tự cấp. Việt Nam lâm vào t́nh trạng khó khăn, khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xă hội, trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam bị cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế, ViệtNam chỉ có quan hệ với một số nước như Liên Xô, Trung Quốc, Lào Nhằm khắc phục khó khăn của đất nước, Đảng và Nhà nước đă có sự thay đổi lớn trong chiến lược phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tự cung tự cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đường lối đổi mới được bắt đầu từ Đại Hội Đảng Vi (12/1986), chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường XHCN có sự quản lư của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khó khăn chồng chất khó khăn, trong t́nh cảnh bị bao vây, cấm vận, cộng với những xáo động chính trị – xă hội ở Đông Âu và nhất là sự sụp đổ của Liên Xô đă làm cho sự hậu thuẫn về chính trị bị yếu đi, thị trường Việt Nam bất ngờ bị thu hẹp hẳn lại, nguồn viện trợ không c̣n, v́ những nước này chiếm hầu hết kim ngạch ngoại thương của Việt Nam và là nguồn viện trợ duy nhất của Việt Nam. Trước những biến đổi đó của Thế Giới, Đảng ta kịp thời đề ra chủ trương, quan điểm, nguyên tắc về chính sách đối ngoại của đất nước, nhằm mở rộng quan hệ hợp tác, tạo thế mạnh, tranh thủ được vốn và công nghệ để phát triển kinh tế, tránh được t́nh thế nguy nan sau khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đă sụp đổ.
    Với nhận thức đúng đắn và tầm nh́n chiến lược Êy, tại Đại Hội Đảng lần thứ VII, Đảng đưa ra quan điểm: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở rộng hợp tác, trên nguyên tắc b́nh đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.Tại Đại hội, Đảng ta đă đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng, xuyên suốt trong hoạt động đối ngoại của ta: “ Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng Thế Giới, phấn đấu v́ hoà b́nh, độc lập và phát triển”. Đây là bước mở đầu cho quá tŕnh hội nhập, quyết định sáng suốt có tính bước ngoặt về chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
    Để phát triển kinh tế, Đảng ta chỉ rơ phải tận dụng tối đa nội lực, trên cơ sở dựa vào sức ḿnh là chính: “Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào sức ḿnh là chính, đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và Thế Giới, hướng mạnh mẽ xuất khẩu” (văn kiện Đại Hội Đảng VIII). C̣ng trong Đại Hội VIII, Đảng chỉ rơ: “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lư đúng đắn lợi Ưch giữa ta và đối tác, chủ động tham gia cộng đồng thương mại Thế Giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, bước đi thích hợp”.
    Đến Đại Hội IX, chính sách đối ngoại của Đảng ta được bổ sung hoàn thiện hơn cho phù hợp với t́nh h́nh mới. Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc, b́nh đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ KTĐN, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch”.
    Như vậy, từ sau 1986 đặc biệt trong ṿng 13 năm (1991 đến nay) thực hiện đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế, Đảng đă chủ động, kịp thời đưa ra những chủ trương, quan điểm cũng như những nguyên tắc trong quá tŕnh hội nhập, những chính sách của Đảng và Nhà nước ta về KTĐN là sản phẩm của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và tŕnh độ của lực lượng sản xuất, có ư
    nghĩa chiến lược lâu dài, phù hợp với thực tiễn nước ta, một nước quá độ lên CNXH bá qua chế độ TBCN và đă đạt được những kết quả nhất định.
    II.2. Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN Nói đến hiệu quả KTĐN là nói đến hiệu quả kinh tế, xă hội trong các mối quan hệ giữa KTĐN với tính cách là tổng thể các hoạt động KTĐN với nền kinh tế quốc dân và đời sống xă hội, để mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xă hội. V́ vậy, khi đề ra mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cho việc phát triển KTĐN ta phải chú ư đến hiệu quả của nó cho phù hợp.
    II.2.1.Mục tiêu Mục tiêu lâu dài khi nước ta tiến hành mở rộng quan hệ KTĐN là nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN. Nhưng trước mắt là nhằm phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, mà nhiệm vụ trung tâm là thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Mục tiêu đó phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của KTĐN.
    II.2.2.Phương hướng cơ bảnPhương hướng cơ bản nhằm phát triển KTĐN trong thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của Đảng: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu v́ hoà b́nh, độc lập” (Văn kiện Đại Hội Đảng IX), cụ thể:
    - Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, b́nh đẳng, cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới dưới mọi h́nh thức.
    - KTĐN là một trong các công cụ kinh tế đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế – xă hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện CNH-HĐH theo định hướng XHCN.
    - Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào kinh tế Thế Giới, phát huy ư chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
    Theo những định hướng trên, những năm qua, hoạt động KTĐN ở nước ta đă từng bước mở rộng thị trường, đă lập lại quan hệ b́nh thường với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, bước đầu thu được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành tựu to lớn đó, hoạt động KTĐN vẫn c̣n những bất cập đă và đang là những thách thức đối với nước ta, đ̣i hỏi chính sách KTĐN tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
    2.2.3.Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN Để mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN, Đảng ta bên cạnh đặt ra những mục tiêu, phương hướng phấn đấu c̣n quán triệt những nguyên tắc phản ánh những thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo lợi Ưch chính đáng về kinh tế, chính trị của đất nước. Phát triển KTĐN trên cơ sở b́nh đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng XHCN đă lựa chọn.
    a.B́nh đẳng
    B́nh đẳng là nguyên tắc có ư nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập chủ quyền. Việt Nam cũng không nằm ngoài yêu cầu đó, trong quan hệ đối ngoại nguyên tắc b́nh đẳng được đặt lên hàng đầu và Việt Nam luôn kiên tŕ đấu tranh để thực hiện nguyên tắc này dù khi tham gia hội nhập chúng ta ở thế bất lợi do điều kiện kinh tế lạc hậu và kém phát triển của đất nước.

    b. Cùng có lợi:
    Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai tṛ chung cho việc h́nh thành và phát triển quan hệ đối ngoại th́ nguyên tắc này giữ vai tṛ là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
    Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi toàn cầu mà mỗi nước có lợi Ưch dân tộc khác nhau. Nếu tham gia hợp tác mà lợi Ưch chỉ thuộc về một bên đối tác th́ quan hệ giữa các nước sẽ đi ra ngoài yêu cầu của quy luật giá trị- quy luật dựa trên nguyên tắc ngang giá của kinh tế thị trường trong cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc này đồng thời là động lực kinh tế để thiết lập và duy tŕ lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau. Đó là cơ sở để cho Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung trong việc xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại và Luật đầu tư nước ngoài và được cụ thể hoá trong các hợp đồng kinh tế giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế với nhau.
     
Đang tải...