Tiểu Luận phong trào nông dân trong lịch sử

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề bài: Phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của phong trào nông dân thể kỉ XVI – XVII. Theo em phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII có điểm gì giống và khác so với phong trào nông dân thể kỉ XIV.
    A. MỞ ĐẦU1. Khái quát chung
    Với một đất nước nền kinh tế chủ đạo là nông nghiệp trồng lúa nước thì nông dân là thành phần chiếm đại đa số trong cơ cấu xã hội. Người nông dân chính là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội.
    Trong xã hội phong kiến, nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu để duy trì sự tồn tại của chính quyền phong kiến, song họ lại không có địa vị trong xã hội, đời sống cực khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề: tô thuế, lao dịch Theo C. Mác: “Người nông dân không có điều kiện làm ăn sinh sống mà tô thuế ngày đêm thúc giục, hành hạ họ, trong hoàn cảnh bị chà đạp trong ngu muội, lạc hậu, họ không thể nào nhìn thấy được nguyên nhân của tình trạng đau khổ của mình. Tất nhiên ách tô thuế trở thành nguyên nhân trực tiếp đập vào mắt họ. Vì vậy, yêu cầu bức thiết là thoát khỏi ngay tình trạng đói nghèo để tiếp tục được sống, đấu tranh.” Không chịu nổi cảnh áp bức, bóc lột nặng nề người nông dân đã đứng lên đấu tranh. Các phong trào đấu tranh của nông dân đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong suốt tiến trình lịch sử trung đại Việt Nam.
    Thế kỉ XIV, các cuộc khởi nghĩa của nông dân đã trở thành một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử. Sang đến thế kỉ XVI – XVII, phong trào nông dân diễn ra sôi nổi rộng khắp cả nước với những khẩu hiệu đưa ra “lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”. Các phong trào đã lôi cuốn được sự tham gia đông đảo của nhân dân ở các địa phương. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cuối cùng các phong trào nông dân ở thế kỉ XVI – XVII đều thất bại, song nó đã giáng một đòn mạnh vào chế độ phong kiến đang trong giai đoạn khủng hoảng suy vong và chứng minh được sức mạnh, tinh thần quật khởi của người nông dân trong lịch sử
    2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
    Phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại nói chung và phong trào nông dân thế kỉ XIV, XVI – XVII nói riêng đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà sử học quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều tác phẩm đề cập đến phong trào nông dân trong thế kỉ XIV, XVI – XVII mà chúng ta có thể kể đến đó là các tác phẩm sử học của các sử gia phong kiến (tài liệu gốc) hay các tác phẩm thông sử, các sách chuyên khảo, các bài viết trên tạp chí nghiên cứu.
    - Các tài liệu gốc như:
    1. Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2003
    2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1998.
    Nguồn tài liệu gốc này có những tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân, diễn biến và kết quả của các phong trào nông dân nổ ra trong thế kỉ XIV, XVI – XVII, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa diễn ra ở từng năm, từng thế kỉ. Nhưng các nguồn tài liệu gốc này đề cập về phong trào nông dân thế kỉ XVI-XVII một cách không tập chung, rời rạc, mang nặng tư tưởng của sử gia phong kiến nên các phong trào này đều được với các danh từ như “giặc”, “giặc loạn” bọn nổi loạn”.
    -Các tác phẩm thông sử, chuyên khảo như:
    · Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam quyển hai, Hà Nội, 1955
    · Minh Tranh, Sơ thảo lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa, 1949
    · Minh Tranh, Tìm hiểu lịch sử phát triển xã hội Việt Nam, NXB : Văn sử địa, 1957
    · Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh Lịch sử Việt Nam: Q.2: 1427-1858, . - In lần thứ 3 có sửa chữa. NXB Giáo dục, 1980
    · Phan Huy Lê, Lịch sử Việt Nam (1406-1858) : Giáo trình dùng cho học sinh năm thứ nhất ngành sử . NXB Trường đại học tổng hợp Hà Nội.
    · Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777, NXB Nhà sách Khai Trí, 1969
    · Trần Xuân Sinh, Việt sử kỉ yếu, NXB Hải Phòng, 2004.
    · Trương Hữu Quýnh (CB), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Gíao dục, 2000
    · Trương Hữu Quýnh (CB), Đào Tố Uyên, Phạm Văn Hưng, Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến 1858, NXB ĐHSP, 2007
    Sách chuyên đề: 3
    · Minh Tranh, Một số ý kiến về nông dân Việt Nam, NXB Sự thật, 1961
    · Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên, Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam, NXB ĐHSP, 2008
    · Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Sĩ Quế, Phong trào nông dân đầu thế kỉ XVI : Bản đồ lịch sử, NXB Trung tâm Bản đồ và Tranh ảnh giáo dục, 1999. - 1tờ : màu ; 67x97cm
    Cũng đề cập đên nguyên nhân, diễn biến và các đánh giá của các tác giả về phong trào nông dân trong các thế kỉ XIV, XVI – XVII. Qua các tác phẩm này, chúng ta có cái nhìn khái quát nhất về bức tranh phong trào nông dân trong lịch sử trung đại thế kỉ XIV, XVI – XVII.

    -Các bài nghiên cứu trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử viết về phong trào nông dân thế kỉ XIV, XVI – XVII.
    · Tìm hiểu tư tưởng dân chủ nông dân thông qua phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam thời trung đại/ Võ Xuân Đàn // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 6 ,Tr.: 52-55. - 1998.
    · Phong trào nông thôn trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam và vấn đề yêu sách ruộng đất của nông dân/ Nguyễn Đổng Chi // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 84 ,Tr.: 3-28. - 1966.
    · Về vấn đề yêu sách ruộng đất trong phong trào nông dân Việt Nam thời phong kiến/ Nguyễn Phan Quang // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 91 ,Tr.: 34-38. – 1966
    · Vai trò của đẳng cấp và giai cấp trong các phong trào khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân ở nửa đầu thế kỷ XVI và giữa thế kỷ XVIII/ Nguyễn Đổng Chi // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 60 ,Tr.: 19-25. - 1964.
    · Cần xác định cho đúng các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời phong kiến Việt Nam/ Nguyễn Khắc Đạm // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 92 ,Tr.: 38-44. - 1966.
    · Thảo luận về những cuộc khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân trong qúa trình lịch sử Việt Nam// Nghiên cứu Lịch sử .-Số 76 ,Tr.: 27. - 1965.
    · Những cuộc khởi nghĩa của nông dân trong lịch sử Việt Nam/ Mấy ý kiến về vấn đề khởi nghĩa nông dân trong lịch sử Việt Nam/ Văn Tân // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 74 ,Tr.: 17-20. - 1965.
    · Vai trò của cuộc khởi nghĩa nông dân trong qúa trình phát triển của dân tộc/ Duy Ninh // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 81 ,Tr.: 3-7,10. - 1965.
    · Tại sao các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Việt Namít có sắc màu tôn giáo/ Nguyễn Khắc Đạm // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 81 ,Tr.: 8-10. - 1965.
    · Về vùng đất đai phủ An Tây trấn Hưng Hóa thời Lê mạt/ Nguyễn Khắc Xương // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 1 ,Tr.: 42-47. - 1985.
    · Vài nét về chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Mạc/ Đỗ Đức Hùng // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 6 ,Tr.: 16-21. - 1991.
    · Về quyền sở hữu ruộng đất khẩn hoang dưới thời phong kiến/ Nguyễn Đức Nghinh // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 5+6 ,Tr.: 41-50. - 1987.
    · Về những sở đồn điền thời Lê ở Đàng Ngoài (Thế kỷ XV-XVIII)/ Nguyễn Đức Nghinh // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 5 ,Tr.: 46-58. - 1986.
    · Vài nét về chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Mạc/ Đỗ Đức Hùng. - 1991
    · Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến Pháp xâm lược Việt Nam/ Nguyễn Hồng Phong // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 1 ,Tr.: 42-55. - 1959.
    · Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến Pháp xâm lược (tiếp theo)/ Nguyễn Hồng Phong // Nghiên cứu Lịch sử .-Số 2 ,Tr.: 26-53. - 1959.
    · Thử tìm hiểu đặc điểm phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam, Duy Minh tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 78 (12/1965).
    · Nghiên cứu lịch sử phong trào nông dân ở Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi tạp chí Nghiên cứu lịch sử.
    · Văn Tân, Mấy vấn đề về khởi nghĩa nông dân trong lịch sử Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử số 74/1965
    · . Duy Minh, Vai trò của khởi nghĩa nông dân trong quá trình phát triển của dân tộc, Nghiên cứu lịch sử số 81/1965.
    · Nguyễn Khắc Đạm, Tại sao cuộc khởi nghĩa nông dân Việt Nam ít có màu sắc tôn giáo, NCLS số 81/1965.


    B. NỘI DUNGChương 1: Nguyên nhân dẫn đến dự thất bại của phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII1. Khái quát về phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII
    1.1. Hoàn cảnh lịch sử, nguyên nhân bùng nổ các phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII
    Phong trào nông dân thế kỷ XVI- XVII diễn ra trong bối cảnh lịch sử rất phức tạp. Ở đó người ta thấy sự hưng thịnh, suy vong, gây ra những cuộc chiến tranh triền miên giữa các tập đoàn phong kiến để tranh giành quyền lực, gây bao đau thương cho nhân dân, cảnh chia lìa trong nước diễn ra.
    Nhà Lê sơ nếu như ở thế kỷ XV được coi là giai đoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam thì sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến bước vào khủng hoảng, suy thoái mất dần vị trí trong lịch sử. Năm 1504, vua Lê Hiến Tông vì ham mê nữ sắc nên chết sớm. Những người kế nghiệp như Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đều không có đức độ tài năng,ngày đêm ăn chơi xa xỉ không lo việc triều chính, tình hình đất nước ra sao.
    Lê Uy Mục sao nhãng việc triều chính, ăn chơi sa đoạ: “ Vua thích uống rượu, hay giết người, hiếu sắc, làm oai, giết hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận, người đời gọi là quỷ vương, điềm loạn hiện ra từ đấy”(760). Dưới đây là một loạt các biểu hiện về sự thối nát, tàn bạo của vua Uy Mục: “ Vua từ khi lên ngôi, đêm vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết”(766); “ Bạo Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Thoắt đã được 5 năm, tội ác đến muôn vẻ”. Uy Mục sai giết các công thần, tôn thất có ý không ủng hộ mình “ Bấy giờ vua giết hại người tôn thất, Giản Tu Công Oanh còn bị giam ở ngục”(768), “giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liêu” (768), “ phàm các quan người nào khi trước không muốn lập mình thì chú và anh em, cả thảy 26 thân vương, mà kinh vương là chú thì ẩn trốn không biết ở đâu, duy có Giản Tu công là con chú bác bị giam vào ngục trốn đi thoát được” (766); tính tình hung hãn đến nỗi người đời phải gọi y là “quỷ vương”(760); vua đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính, bề tôi ngựa trâu coi dân như rác, kiêu ngạo còn quá Nguỵ Canh. Huống chi lại làm cung thất to, vườn hoa rộng. Bắt dân trồng cây, theo bánh xe đổ gò Hoa Cương nhà Tống; lấp biển làm điện nối gót hòn mê cung A Phòng nhà Tần” (768,769).
    Dưới thời Uy Mục, bọn quý tộc ngoại thích dựa thế nhà vua, kết thành bè cánh nắm hết quyền hành, họ ngoại chuyên quyền, lộng quyền làm rối loạn triều chính: “ Bấy giờ quyền về họ ngoại, phía Đông thì làng Hoa Lăng (quê của mẹ nuôi), phái Tây thì làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía Bắc thì làng Phù Chẩn ( quê của mẹ đẻ vua) đều chuyên cậy quyền thế, dìm hãm thần liêu, có khi vì tư ý mà giết hại sinh dân, có khi dung ngón kín mà yêu sách tiền của, phàm súc vật, hoa màu của dân gian đều cướp cả, cùng nhà dân ai có đồ lạ vật quý thì đánh chữ vào để lấy”(766); “ bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi *** tung hoành làm bậy, kẻ cương trực bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi Bọn quý tộc ngạo lại ngược, ngược lại ngạo, quấy rối vùng phiên trấn tứ Tuyên” (768, 769); Bài hịch rằng: “ Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên quyền. Tử Mô là phường ngu hèn nơi phố chợ, rối loạn triều cương; Thắng Xung là hạng trẻ con chốn hương thôn, cán làm uy phúc”(769); “Kỷ năm Đoan Khánh hoạn quan dự chính, họ ngoại chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn”(771); vua “yêu dung họ mẹ là bọ Khương Xung và Nguyễn Bá Thắng, ngang tàng bạo ngược, đảo lộn triều cương Bọn Xung Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước”(772).
    Lợi dụng tình hình sa đoạ đó của chính quyền trung ương, bọn quan lại địa phương mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, đến nỗi ở phố xá, chợ búa, hễ thấy bóng quan thì dân vội đóng cửa, và tìm đường ẩn trốn, trong sách “ Đại Việt sử kí toàn thư” có đoạn tố cáo bọn quan lại: “ Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi. Đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn” (768, 769).
    Sự ăn chơi sa đọa, nội bộ mâu thuẫn không chỉ thấy ở Vua Lê Uy Mục, Tương Dực mà ta còn thấy ở chúa Trịnh như Trịnh Cối: "Anh thần là Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm muộn ngày nào cũng sinh loạn, lại ngày đêm mưu cướp binh quyền và ấn của thần" (853); "Tuấn Đức hầu Trịnh Cối anh em không hòa với nhau mà làm loạn ở Thanh Hoa" (854).
    Vua Lê mất uy quyền, triều đình rối loạn. Các thế lực phong kiến ngày càng mạnh lên, nhân đó hợp quân tranh chấp lẫn nhau. Năm 1527 Mạc Đăng Dung bức vua Lê phải nhường ngôi, lập ra nhà Mạc( 1527- 1592). Cũng từ đây đất nước lâm vào tình trạng chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến: Nam – Bắc triều ( Bắc triều của họ Mạc và Nam triều của nhà Lê Trung Hưng do năm 1533, Nguyễn Kim dựa vào sự giúp đỡ của vua Ai Lao, mộ quân luyện tập và tôn một người con của Chiêu Tông tên là Ninh lên làm vua. Nhiều cựu thần nhà lê được tin đó theo vào Thanh Hoá trung hưng lại triều đình Lê, sử gọi là Nam triều); chiến tranh Đàng Trong – Đàng Ngoài giữa chính quyền Trịnh – Nguyễn (1627- 1672) làm cho đất nước thêm rối loạn, chia cắt phân li, đời sống nhân dân khổ cực, chia lìa.
    Chiến tranh Nam – Bắc triều diễn ra quyết liệt, triền miên: năm 1559, “tháng 10, thái sư Trịnh Kiểm đem binh và voi đi đánh dẹp các xứ Kinh Bắc, đóng dinh ở phủ Thuận An, cầm cự nhau với quân Mạc Tháng 11, thái sư Trịnh Kiểm chia quân đi đánh các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, các huyện Siêu Loại, Văn Giang, quân đi đến đâu quân giặc đều chạy tan.
    Hậu quả của cuộc chiến tranh Nam- Bắc triều là vô cùng lớn: "Sông Mã từ Úng quan trở xuống, sông Lam từ Bổng Luật trở xuống, khói lửa mù trời, cờ cắm rợp đất. Nhân dân ở chốn Thanh Hoa dắt già cõng trẻ, nhốn nháo ngoài đường không biết nương nhờ vào đâu, tiếng kêu vang trời, bao nhiêu tiền của súc vật, phụ nữ đều bị quân Mạc lấy cả" (855).
    Tình trạng Nam - Bắc triều chưa chấm dứt được bao lâu thì chiến tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài giữa chính quyền Trịnh - Nguyễn lại diễn ra dai dẳng, triền miên (1627 - 1672) gây nhiều tổn thất cho đất nước, nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực.
    Thứ hai, nguyên nhân về kinh tế, thời kỳ này kinh tế tuy phát triển nhưng chỉ để phục vụ việc củng cố tiềm lực cho các tập đoàn phong kiến tham gia chiến tranh.
    Đến thế kỷ XVI, XVII chính sách quân điền thời Lê đã mất ý nghĩa tích cực của nó là chia đều cho nhân dân, quan lại, địa chủ xâm chiếm ruộng đất của dân, cướp đoạt ruộng đất của dân: "Kỷ năm Đoan Khánh hoạn quan dự chính, họ ngoại chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn; nông tang mất nghiệp, phong tục ngày hư, thực là đáng thương vậy"(771); "quan lại tham nhũng chiếm ruộng đất"(935). Tuy nhiên chính sách của nhà nước phần nào cũng có tác dụng nhất định đối với phát triển kinh tế: "Lệ binh bổ thuế đinh ở bốn trấn đã định xong. Trước đây nhà nước mới bắt đầu khôi phục, thuế khóa vẫn thao như cũ, nên có chỗ nặng chỗ nhẹ không đều. Mới rồi vương sai quan chia đi trong nước, tùy theo tài sản của dân nghèo, ruộng đất tốt xấu mà binh bổ lệ ngạch thuế đinh theo thứ bậc khác nhau. Đến đây đã làm xong, biên rõ lệnh lệ, ban cho quan và dân mỗi bên giữ một bản, để theo đó làm bằng cứ mà thành lệ thường. Cấm quan khuyến nông và quan hà đê được đòi tiền của dân. Bấy giờ người giữ chức ấy không lo khám xét khuyên bảo, chỉ chằm đòi lễ mừng của dân cho nên nghiêm cấm"(980); "có chỉ truyền rằng phàm người được cấp ruộng công, chỉ được cấy trồng 10 mẫu ruộng ở quê mình, còn thì chiếu thu tiền thuế không được cày quá lạm".
    Nhà Mạc, chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều có những biện pháp phát triển nông nghiệp. Nhà Mạc sử dụng chính sách lộc điền và binh điền vì lực lượng binh lính có vai trò quan trọng để bảo vệ chính quyền: "chỗ đất Ái Châu núi sông hiểm trở, ruộng đất tốt màu, binh lương nhiều đủ"(829); nhà Mạc "có lệnh cấm các xứ trong ngoài người ta không được cầm giáo mác và binh khí hoành hành ở dường sá, ai sai trái thì cho pháp ty bắt. Từ đấy người bôn bán và người đi đường đều đi tay không, ban đêm không có trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về chỉ mỗi tháng điểm soát một lần, hoặc có sinh đẻ cũng không thể biết là vật của nhà mình. trong khoảng vài năm, đường sá không nhặt của rơi, cổng ngoài không đóng, thường được mùa to trong cõi tạm yên"(829).
    Tuy nhiên nạn quan tham cướp bóc của nhân dân khiến đời sống của nhân dân cũng khó khăn hơn: "vì người thừa hành chưa biết thể theo đức ý người trên, chăm làm khắc bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, phàm những việc nhiễu dân, không việc gì là không làm, khiến dân trong nước con trai hoặc có người không có áo, con gái hoặc có người không váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không trông được vào đâu, ăn uống chỉ dùng hàng ngày đều thiếu, dân mọn nghèo nàn, cho chí sâu bọ cỏ cây, đều không được thỏa sống"(919).
    Thứ ba, yếu tố xã hội. Nguyên nhân dẫn đến phong trào nông dân thế kỷ XVI-XVII, không chỉ do yếu tố chính trị, kinh tế mà còn do các hiện tượng xã hội: nạn đói, dân phiêu tán, hạn hán, bão lụt, thiên tai mất mùa ,hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh phong kiến để lại. Dưới đây là một loạt các sự kiện nói về các hiện tượng xã hội tác động đến phong trào nông dân thế kỷ XVI- XVII:
    "Đại hạn trong nước đói to" (784); "Mùa hạ tháng 6, ngày mồng 7, nước to vỡ đê phường An Hoa thông vào hồ Tây" (789); " Năm ấy trong nước đói to, nhân dân chết đói nằm gối lên nhau"(803); "Mùa thu tháng 7, ngày mồng 7, trời mưa to sét đánh chết người rất nhiều"(804)' "Thiên hạ đói kém thèm rau, quân lính thiếu lương"(807); "Từ tháng ² đến tháng 4, trì nắng to lúa hỏng gạo đắt" (808); "Ngày mồng 10, trời mưa nhiều sâu lúa"(816); "Tháng 8 có sâu lúa"(818); "Năm ấy động đất 2 lần. Mùa hạ tháng 6 có đại hạn"(818); "tháng ² đại hạn có sâu lúa, lúa má chết khô"(827).
    "Xứ Hải Dương mưa đá, có hòn to như hòn đá lớn, như đầu ngựa"(833); "Mùa hạ tháng tư, gió to gãy cây tốc nhà, nước biển dâng lớn, người và súc vật chết đuối"(833); "đại hạn, mùa đông tháng mười động đất"(834); "Mưa dầm to mấy tháng không ngớt. Ở Thanh Hoa, Nghệ An ruộng lúa bị ngập, mùa mất"(844). "tháng 8 ở Nghệ An nước lụt đê đường vỡ lở, trôi mất vài trăm nhà, trong thành Tây Đô bị ngập, kho tàng phần nhiều ngập nước, nhân dân đói kém"(845); "mùa đông tháng 10 ngày Giáp Tý, đêm động đất, núi lở cây cỏ chết khô"(852); "nhân dân các huyện ở Thanh Hoa xiêu tán, ruộng không ai cày nhiều người chết đói"(855); "Năm ấy địa hạt Thanh Hoa không thu được một hạt thóc nào, dân đói to nhiều người xiêu dạt"(858); "năm ấy các huyện ở Nghệ An đồng điền bỏ hoang không thu được hạt thóc nào, dân đói to lại bị bệnh dịch, chết đến quá nửa, nhân dân nhiều người xiêu dạt, hoặc tản đi miền Nam hoặc dạt về đông bắc, trong hạt tiêu điều"(859); " bây giờ ở Thanh Hoa mưa dầm nhiều, nước lụt đến 7 lần, lúa má phần nhiều bị hại, dân đói to"(866); Mùa hạ tháng tư, ngày năm mưa to, lụt"(871); "tháng 9 ngày mồng 2 nước to, mưa dầm hơn 1 tuần Năm ấy địa phương Thanh Hoa mất mùa. Tháng 10, trừi lại mưa dầm hơn hai tuần không ngớt, núi ở các huyện sụt lở bừa bãi (871,872).
    Năm 1589, "Kỷ Sửu năm thứ 12, đại hạn, gạo đắt, dân nhiều người xiêu tán"(874); "tháng 6 nước to đổ về .nhân dân đói kém"(931); " ngày mồng 6 có gió to từ phía đông bắc làm gãy cây đổ nhà, nhiều thuyền bị đắm"(932); "Xứ Hải Dương có mưa đá, có hòn to như hòn đá lớn, như đầu ngựa, người và vật bị hại"(933); "mùa hạ đại hạn, lúa má khô héo, nhân dân đói kém"(937); "bấy giờ đại hạn, thóc vụ chiêm đều không thu được, phá chằm khô cạn cây cỏ phần nhiều vàng rụng, hoa quả cằn cỗi. trộm cướp quần tụ trong dân gian bọn lớn đến 7,8 trăm người, bọn nhỏ cũng chẳng kém vài trăm người, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp lấy tiền của súc vật, thủy bộ không thông, đường xá bế tắc, dân chết đói nhiều, chết đến quá nửa"(899); năm 1597, tháng 6 "tháng ấy không có mưa gió mà nước sông Lô bỗng đầy tràn chảy xói. Năm ấy trước đại hạn sau nước lụt, lúa má tổn thất nhiều, mất mùa luôn, dân nhiều người xiêu tán"(902).
    Như vậy ta thấy trong các nguyên nhân dẫn tới phong trào nông dân thế kỷ XVI- XVII: kinh tế, chính trị, xã hội thì sự khủng hoảng thối nát trầm trọng của chính trị là nguyên nhân sâu xa, cốt lõi chủ yếu dẫn đến khởi nghĩa nông dân trong giai đoạn này.
    (Dẫn chứng trích trong: tác phẩm "Đại Việt sử kí toàn thư" (trọn bộ) Nxb Văn học, Hà Nội, 2009)
    1.2. Diễn biến của phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII
    Không chịu nổi cảnh cùng khổ, ách bóc lột hà khắc nặng nề, người nông dân đã đứng lên khởi nghĩa.
    Năm 1511, Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng hợp quân khởi nghĩa ở Kinh Bắc. Cùng năm 1511 còn có cuộc khởi nghĩa của Trần Tuân ở vùng Sơn Tây, Hưng Hóa. Lực lượng nghĩa quân có tới hàng vạn người, nhiều lần đánh bại quân lính của triều đình. Cuối năm 1511, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp và thất bại.
    Đến mùa Hạ năm 1512, Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triết khởi nghĩa ở vùng Nghệ An, đánh bại quân triều đình do Khang quận công Trần Nghi chỉ huy. Nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động ở Thanh Hóa.
    Trong 8 năm (1515 – 1522), phong trào nông dân khởi nghĩa phát triển ở nhiều địa phương từ Thanh Hóa đến Sơn Tây, Vĩnh Yên, Kinh Bắc, Tuyên Quang.
    Đầu năm 1515, Phùng Chương hô hào nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở Sơn Tây. Đến tháng 10 cũng năm này có cuộc khởi nghĩa của Đặng Hân và Đặng Ngật ở Thanh Hóa. Cuối năm 1515 bị thất bại.
    Tháng 2/1516, Trần Công Ninh tập hợp nông dân khởi nghĩa ở Vĩnh Phúc.
    Cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo là cuộc khởi nghĩa lớn nhất đầu thế kỉ XVI. Từ căn cứ Hải Dương, nghĩa binh phát triển ra các vùng nhằm hướng chủ yếu tiến về Đông đô. Tháng 4 nghĩa binh của Trần Cảo vượt qua các miền Tiên du, Quế Dương, Gia Lâm để uy hiếp kinh thành. Triều đình lo sợ, vua Tương Dực phải hạ chiếu thân chinh đi giữ thành và động viên tinh thần quân sĩ. Quân của triều đình đã đem quân đi đánh nghĩa quân Trần Cảo.
    Vào các năm 1571,1594,1596, nông dân nổi dậy ở một số nơi như: Sơn Tây, Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An, Hà Tĩnh. Sang thế kỉ XVII, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ít hơn. Vào các năm 1627, 1667,1670,1681,1683,1695 cũng có một số cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng nhanh chóng bị đàn áp và thất bại.
    2. Nguyên nhân thất bại của các phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII
    Sau một thời gian dài phát triển, sang thế kỉ XVI – XVII, xã hội Việt Nam rơi dần vào cảnh khủng hoảng. Chính quyền suy yếu, kinh tế sa sút, các thế lực phong kiến tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau gây ra tình trạng các cuộc nội chiến kéo dài. Không chịu nổi cảnh cực khổ, ách bóc lột hà khắc nặng nề, người nông dân đã đứng dậy đấu tranh. Các phong trào nông dân nổ ra mạnh mẽ trong thế kỉ XVI – XVII song đều nhanh chóng thất bại và bị dập tắt. Nguyên nhân thất bại của các phong trào nông dân thời kì này có thể kể đến rất nhiều, nhưng chủ yếu có những nguyên nhân sau đây:
    - Nguyên nhân khách quan
    +Thời kì này, mặc dù các cuộc chiến tranh phong kiến liên tiếp nổ ra, nhưng nhà nước phong kiến còn mạnh, đủ sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Nhà Mạc cũng như nhà Lê – Trịnh đều xây dựng cho mình những lực lượng quân sự thường trực hùng mạnh, được tập luyện thường xuyên, trung thành với chính quyền thống trị. Lực lượng quân Tam phủ rất đông, bình thường có tới 5 – 6 vạn có nhiệm vụ bảo vệ Vua chúa trong kinh thành, làm lực lượng nòng cốt trong các cuộc chiến tranh và các cuộc đàn áp phong trào nông dân. Lực lượng quân đội thời kì này còn được trang bị các loại vũ khí hiện đại, thường xuyên tuyển thêm lính “Tháng 5 mùa hạ 1667, tuyển thêm lính ở Tứ trấn. lúc ấy bàn định đi đánh Cao Bằng, bèn hạ lệnh tuyển binh ở tứ trấn, chọn người lấy mạnh khỏe bổ làm lính để thời thường xuyên luyện tập, phòng bị việc đánh dẹp, khi đánh dẹp xong lại cho về làm ruộng”
    Với lực lượng đó, nhà nước phong kiến đủ mạnh đủ khả năng để kiểm soát tình hình và để đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân.
    Bọn Lê Hi, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt ở Nghệ An nổi loạn. Nhà vua sai tướng đi đánh, giết được bọn này.
    Bọn Hi và Hưng lúc bấy giờ dấy quân ở Nghệ An. Nhà vua hạ lệnh cho bọn Khang quận công Trần Nghi và Đông các hiệu thư Trần Dực đi đánh. Binh thuyền của bọn Trần Nghi tiến vào Nghệ An, Hi và Hưng chia quân ra các đạo đằng trước, đằng sau đánh khép lại. thế lực của bọn Trần Nghi không sao địch nổi, phải đi thuyền vượt ra biển, gặp sóng gió đổ thuyền, toàn quân bị chết, Trần Nghi và Trần Dực đều chết đuối ở biển. Bọn Lê Hi nhân thế thắng, tiến quân đến sát huyện Lôi Dương. Nhà vua hạ lệnh cho Nguyên quận công Trịnh Duy Sản thống lãnh quan quân, Đỗ Nhạc tán lý việc quân, đem binh sĩ đi đánh, chém được Minh Triệt, bắt được bọn Lê Hi và Trịnh Hưng đóng cũi đưa về kinh sư, rồi giết chết.” (tr56)
    “Tháng 11, mùa đông, TRần Tuân ở Sơn Tây nổi loạn, nhà vua sai Trinh Duy Sản đi đánh giết được Trần Tuân.Tuân là người xã Quang Bị, huyện Bất Bạt là cháu Trần Cẩn, một viên thượng thư đã mất. Tuân là người hung hãn chém cứ các động ở ven núi rừng vùng Hưng Hóa, tụ tập quân vô lại kể hàng vạn người, tung ra cướp bóc các nơi. Lúc bấy giờ quân của Tuân di chuyển về mặt Sơn Tây, nhân dân ở kinh thành náo động, chạy đi nơi khác tránh nạn. Nhà vua sai Mỹ Huệ Hầu Trịnh Nguyên Sản đem quân tiến đánh, bị thua, Duy Sản đem quân về giữ ở xã Đông Ngạc và phường Nhật Chiêu. Quân của Tuân nhân khí thế đương mạnh, muốn tiến sát gần kinh thành. Nguyễn Văn Lang đã sai quân thân tín ở 6 vệ Điện Tiền chuẩn bị thuyền của vua, muốn rước vua lánh nạn vào Thanh Hoa; một mặt điều động những người làm thợ tại các sở, bày hàng trận ở Đông Hà, để tỏ cho địch biết có quân phòng bị giữ kinh thành. Đến đêm, toán quân này tự nhiên sợ hãi tan vỡ.
    Duy Sản thu thập toán quân tan vỡ lại còn hơn 30 người, họ xé áo làm dấu hiệu, thề đánh nhau với giặc. Hôm ấy trời đã gần tối, quân của Duy Sản chợt kéo đến trại lính của Trần Tuân. Duy Sản xông thẳng vào đâm chết. Quân trong trại bèn tan vỡ. Các toán quân nơi khác không biết là Tuân đã chết, cứ tụ họp như cũ. Nhà vua được tin báo, bèn sai Nguyễn Văn Lang đôc thúc tướng sĩ các dinh hội họp với toán quân của Duy Sản, nổi trống hò reo tiến đánh, phá tan được bọn ày, đuổi đến địa phận xã Thụy Hương và Qụa Động, chém giết không biết bao nhiêu mà kể ”.(tr 53)
    (Trích : Khâm Định việt sử thông giám cương mục, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998).
    + Sự mở rộng ruông đất và sự thay đổi cải tiến kĩ thuật canh tác làm cho quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì một cách ổn định, mâu thuẫn xã hội chưa thực sự quyết liệt.
    Vào những năm 20 của thế kỉ XVI nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, nhất là những năm đầu dưới triều nhà Mạc. Tuy nhiên khi chiến tranh Nam – Bắc triều nổ ra tình hình ruộng đất bị xáo trộn nhưng ở các vùng đất Thuận – Quảng người nông dân vẫn tiếp tục khai phá đất hoang, mở rộng sản xuất. Nông nghiệp phát triển một cách ổn định, đời sống của nhân dân được nâng cao góp phần ổn định lâu dài tình hình xã hội.
    - Nguyên nhân chủ quan:
    + Các cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVI – XVII không có sự liên tục, mang tính chất ngắt đoạn. Qua diễn biến của các phong trào, có thể thấy các cuộc khởi nghĩa nổ ra rải rác ngày từ đầu thế kỉ cho đến cuối thế kỉ nhưng không liên tục ở cả thế kỉ. Thế kỉ XVI chủ yếu diễn ra tập trung ở đầu thế kỉ và cuối thế kỉ. Thế kỉ XVII nổ ra ít hơn và diễn ra vào những thập niên cuối của thế kỉ XVII.
    “Tháng 7/1695, Lê (Thì) Liêu ở trấn Sơn Tây dẹp yên được trộm cướp, dập bớt được kiện tụng.”(tr. 312)
    “Tháng 4/1665, thổ tù Lạng Sơn là Bế Công Lương và Bế Công Tế trái mệnh lệnh triều đình đã từ lâu. Đình Kế đến trấn thủ Lạng Sơn dụ dỗ được bọn Công Lương cam kết quy thuận, được triều đình ngợi khen”.(tr. 312)
    “Tháng 6/1670, con trai Ma Phúc Trường, thổ tù Tuyên Quang, là Phúc Lan và em Phúc Trường là Phúc Điện tụ họp nhiều người đi cướp bóc, dân địa phương bị rối loạn.”(tr .326)
    (trích: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998)
    + Mặc dù các cuộc khởi nghĩa thời kì này đã có sự lan tỏa ra nhiều địa phương, nổ ra ở nhiều địa bàn trên cả nước, nhưng các cuộc khởi nghĩa không có tổ chức lãnh đạo thống nhất, vẫn diễn ra riêng lẻ ở từng địa phương, chưa có sự liên kết giữa các cuộc đấu tranh.
    +Những người lãnh đạo các phong trào khởi nghĩa nông dân về sau này đã không biết tận dụng những cơ hội tốt để phát triển cuộc khởi nghĩa mà chỉ lo gây dựng vương quyền trong một phạm vi nhỏ hẹp,làm cho cuộc khởi nghĩa bị cô lập và phong trào nông dân dẹp xuống.
    Ví dụ cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo là cuộc khởi nghĩa lớn nhất đầu thế kỉ XVI. Từ căn cứ Hải Dương, nghĩa binh phát triển ra các vùng nhằm hướng chủ yếu tiến về Đông đô. Tháng 4 nghĩa binh của Trần Cao vượt qua các miền Tiên du, Quế Dương, Gia Lâm để uy hiếp kinh thành. Triều đình lo sợ, vua Tương Dực phải hạ chiếu thân chinh đi giữ thành và động viên tinh thần quân sĩ. Quân của triều đình đã đem quân đi đánh nghĩa quân Trần Cảo. Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lên cao làm cho triều đình phong kiến đã suy đồi nay càng thêm bạc nhược. Nhân cơ hội này, Trần Cảo chỉ huy nghĩa binh vượt sông Hồng chiếm đóng kinh thành. Bọn quan lại nhà Lê hầu hết đều bỏ trốn. Nghĩa quân chiếm được kinh thành và làm chủ một phạm vi rộng lớn. Hầu hết miền bắc bộ ngày nay, chính quyền phong kiến nhà Lê bị lung lay, tan rã, lực lượng chủ yếu của triều đình đã phải rút vào Thanh Hóa. Trần Cảo lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Ứng, định lập ra một triều đại phong kiến mới. Do điều kiện lịch sử hạn chế, giai cấp nông dân không thể tự giải phóng được mình nên chỉ có thể lật đổ một triều đại phong kiến thối nát để thành lập một triều đại phong kiến mới mà thôi. Nhưng Trần Cảo không biết tận dụng thời cơ, thừa thắng trấn áp các lực lượng phản kháng để củng cố hậu phương chuẩn bị đối phó với quan quân triều đình đang tập hợp lực lượng ở Thanh Hóa. Bọn địa chủ quan lại ở các nơi vẫn ngấm ngầm mộ quân mưu phản nghĩa binh, chờ đón quân đội của triều đình tiến ra. Bọn Dương Báo truyền hịch “Phù quốc thảo nghịch Cao” (giúp nước đánh giặc Cao) đi đến các địa phương hô hào phản kháng nghĩa binh.
    + Phong trào nông dân thế kỉ XVI – XVII đẫ chín muồi ở tầng lớp trên và giữa trong nhân dân nhưng chưa thực sự chín muồi ở tầng lớp dưới – tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa vẫn là quan lại, trí thức, quý tộc. Không có lãnh tụ nào là nông dân đứng lên chiêu mộ nhân dân khởi nghĩa, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn xã hội thời kì này chưa lên đến đỉnh điểm.
















    Chương 2: So sánh phong trào nông dân thể kỉ XVI – XVII với phong trào nông dân thể kỉ XIV.*Giống nhau
    1. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân thể kỉ XIV và thể kỉ XVI – XVII đều do các hiện tượng xã hội: nạn đói, dân phiêu tán, hạn hán, bão lụt, thiên tai mất mùa , hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh phong kiến để lại. Đây là hậu quả của các chính sách kinh tế, chính trị.
    - Ở thế kỉ XIV theo thống kê trong Đại Việt sử ký toàn thư trước 1342 không có khởi nghĩa nông dân nhưng có 10 lần diễn ra thiên tai mất mùa, khoảng cách giữa các lần này thường khá dài. Sau 1342 khoảng cách giữa các lần thiên tai mất mùa ngắn hơn mà người ta thấy khi thống kê so sánh thiên tai mất mùa với khởi nghĩa nông dân thì các cuộc khởi nghĩa nông dân thường diễn ra đồng thời hoặc ngay tiếp sau những hiện tượng xã hội.
    Năm 1343: mất mùa đói kém đại hạn kéo dài thì nhân dân nhiều người trộm cướp.
    Năm 1344: mất mùa, đói kém diễn ra cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ.
    Năm 1351: nước to, khởi nghĩa của người Thái Nguyên, ở Lạng Sơn tụ họp đi ăn cướp, đánh lẫn nhau.
    Có thể nói rằng “ đói và khởi nghĩa nông dân là những sự kiện gắn liền với nhau và phủ đầy những trang sử cuối đời Trần”.
    - Ở thế kỉ XVI – XVII, các hiện tượng thiên nhiên, mất mùa, đói kém cũng thường xuyên xảy ra. Người ta thấy rằng trong thế kỉ XVI đã chứng kiến khoảng 16 lần bị thiên tai, hạn hán, nhân dân bị đói. Trong đó có 9 lần Nông dân khởi nghĩa. Trong 9 lần nông dân khởi nghĩa thì có 4 lần khởi nghĩa nông dân diễn ra đồng thời với các hiện tượng thiên tai, lũ lụt : 1513, 1515, 1516, 1596.
    Nhâm Thân, năm thứ 4 (1512). (Minh, năm Chính Đức thứ 7 ).
    Tháng giêng, mùa xuân.
    Hạn hán; dân bị nạn đói to.
    Tháng 8, mùa thu. Có thủy tai lớn đến mãi tháng 9.
    Năm 1516
    Tháng 3. Có thủy tai lớn
    Năm 1517
    Dân bị đói lớn.
    Năm ấy, trong nước bị đói to, nhân dân chết đói, thây nằm chồng chất lên nhau. Các huyện Đông Triều Giáp Sơn thuộc Hải Dương và huyện Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn thuộc Kinh Bắc, nạn đói càng dữ hơn. (tr 615)
    Kỷ Mão, năm thứ 4 (1519). (Minh, năm Chính Đức thứ 4 ).
    Đại hạn từ tháng 3 đến tháng 4.
    Tháng 5, mùa hạ. Mưa to
    Tháng 6, mùa hạ. Đại hạn. (1525) Tr 622
    Thanh Hoa có nạn thủy tai lớn. Dân bị đói.
    Năm này, Thanh Hoa hay mưa dầm, nước lụt đến bảy lần. Lúa đồng bị hư hại. Dân đói to. (Tr 663)
    ( Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn)
    Phong trào bạo động của nhân dân lan rộng ra nhiều nơi. Nhất là từ năm 1512 trở đi, Vua Tương Dực bắt nhân dân đi phục dịch nặng nề, nạn đói kém xảy ra liên tiếp uy hiếp nghiêm trọng đời sống của nhân dân. Tình trạng đó đã đẩy nông dân đứng lên đấu tranh khởi nghĩa. Từ năm 1515 – 1516 phong trào nông dân nổ ra nhiều nơi ở Thanh Hóa, Sơn Tây, Vĩnh Yên, lên đến Bắc Ninh, Tuyên Quang. Năm 1519 nhân dân vùng Thượng du Thái Nguyên, Tuyên Quang nổi dậy khởi nghĩa
    Thế kỉ XVII có 13 lần thiên tai vỡ đê, hạn hán đói kém. Thế kỉ XVII chỉ có 4 cuộc khởi nghĩa nông dân trong đó có 3 lần diễn ra cùng với thời điểm vỡ đê hạn hán:1667,1681,1695
    Đinh Dậu, năm thứ 5 (1657). (Minh, năm Vĩnh Lịch thứ 12. Thanh, năm Thuận Trị thứ 14).
    Tháng 9, mùa thu. Mưa to. gió lớn.
    Lúa ở các huyện Thanh Hoa và Sơn Nam bị đổ hết. (tr 703)
    Tháng 6 (năm 1667). Vỡ đê Thanh Hoa.
    Mậu Thân, năm thứ 6 (1668). (Thanh, năm Khang Hy thứ 7). Tr 729
    Đại hạn. (Tr 730)
    Tháng 12 (năm 1675) mùa đông. Đại hạn. (Tr 738)
    Mậu ngọ, năm thứ 3 (1678). (Thanh, năm Khang Hy thứ 17).
    Tháng 4, mùa hạ. Động đất. (Tr 742)
    Tháng 10 (năm 1679) mùa đông. Thanh Hoa bị nạn đói.
    Thanh Hoa bị nước tràn ngập, hoàng trùng phá hại lúa, nhân dân phần nhiều phiêu tán. Triều đình hạ lệnh xá thuế dân đinh và các thuế tuần ty, thuế bến đò, giảm bớt các sự lệ cúng tế. Lại hạ lệnh cho hai ty Thừa chính, Hiến sát và phủ huyện đều phải trai giới cầu đảo. (Tr 744)
    ( Trích Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn)
    2. Các cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỉ XIV và thế kỉ XVI – XVII tuy mục tiêu không đặt thành khẩu hiệu rõ rệt nhưng các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì này mục tiêu đều hướng đến các lợi ích kinh tế. Đó là: lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Đây là khẩu hiệu chiêu dụ dân chúng, chứ chưa đưa ra khẩu hiệu ruộng đất. Các cuộc khởi nghĩa này còn nhằm tấn công vào triều đình, vua quan phong kiến, quan lại địa phương.
    - Ở thế kỉ XIV các cuộc khởi nghĩa này chủ yếu là mục tiêu lợi ích kinh tế, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Năm 1358 “Ngô Bệ lại tu họp quân gia làm phẩn tụ tập ở núi Yên Phụ, kéo là cờ ở trên núi, yết bàng rằng để “cứu tế dân nghèo”. Năm 1399, Nguyễn Nhữ Cái ở Đà Giang chiêu dụ dân lành “đi lại quấy rối cướp bóc” (Trang 327)
    Như thế có thể thấy mục tiêu chính là cướp của người giàu, chưa đưa ra được khẩu hiểu đòi ruộng đất.
    Các cuộc khởi nghĩa này còn nhằm tấn công vào triều đình, vua quan phong kiến. Như cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn đã “đem quân xâm phạm thẳng vào kinh sư, nhà vua và thượng hoàng phải lánh sang Bắc Giang. Sư ôn ở kinh thành 3 ngày, rồi kéo ra đóng ở Nộn Châu” (trang 310)
    Các cuộc khởi nghĩa này còn nhằm tấn công vào các quan lại địa phương, nhưng mới chỉ tấn cống được chính quyền địa phương, huyện như: Ngô Bệ đã từng chiếm được từ xã Thiêu Liêu đến huyện Chí Linh. Nhưng những cuộc khởi nghĩa này chưa uy hiếp được cấp phủ, trấn”
    (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001 để tiện phục vụ hơn cho bạn đọc.)

    - Thế kỷ XVI – XVII Các cuộc khởi nghĩa nông dân chủ yếu hướng vào quan lại địa chủ, cường hào ác bá ở địa phương, thậm chí vây đánh tới tận kinh đô. Hầu hết đều hướng tới những kẻ trực tiếp thống trị, bóc lột nông dân.
    Phong trào nêu khẩu hiệu: lấy của người giàu chia cho người nghèo. Đây là một khẩu hiệu nhằm chiêu dụ dân chúng. Nhìn chung các cuộc khởi nghĩa tuy không đặt thành những khẩu hiệu rõ rệt nhưng mục đích chủ yếu đều nhằm lợi ích kinh tế. Khẩu hiệu ruộng đất – động lực chính của phong trào nông dân vẫn chưa được đề cập tới.
    Mặc dù các khẩu hiệu không được nêu một cách rõ ràng nhưng căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, người viết có thể suy đoán được mục tiêu mà khởi nghĩa nông dân hướng tới.
    Năm 1594, người huyện Vĩnh Lại là Lại quận công mưu làm phản, cũng đem binh chúng bản huyện đi theo. Bấy giờ các huyện Hải Dương nhân dân mất mùa to, đói kém đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến 1/3” (tr724)
    Hoặc: cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Minh Trí năm 1596 gắn với sự kiện “Năm ấy, trước đại hạn, sau nước lụt, lúa má tổn thất nhiều, mất mùa luôn, dân nhiều người xiêu tán, .” (tr 737)
    Hoặc: “Bấy giờ nhân dân tứ chiếng bị làm phiền vì việc cắt cỏ voi, lại bị người sở quản quấy nhiễu, dân khổ không chịu nổi, nhiều người đi theo đảng ngụy, cướp bóc dân gian” (tr 738) à Sự kiện này chứng tỏ nhân dân bất mãn sâu sách với ách cai trị của chính quyền nên vùng lên khởi nghĩa.
    ( Trích Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2004)
    3. Các cuộc khởi nghĩa nông dân thể kỉ XIV và thể kỉ XVI – XVII, một số người cầm đầu xưng tước hiệu, niên hiệu.
    - Ở thế kỉ XIV, Một số người lãnh đạo phong trào đã đứng ra xưng tước hiệu. Như:
    + Phạm Sư Ôn xưng vua “tạm xưng danh hiệu lớn” (Trang 310),
    + Nguyễn Thanh, người Thanh Hóa tự xưng là Linh Đức Vương (Trang 308)
    + Nguyễn Kỵ, tự xưng là Lỗ Vương (Trang 308)
    Xưng tước hiệu cho thấy xu hướng khẳng định quyền lực của một số người lãnh đạo phong trào nông dân. Đồng thời đây cũng là một cách thu hút hơn nữa sự tha, gia đóng góp đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
    (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001 để tiện phục vụ hơn cho bạn đọc.)
    - Ở thế kỉ XVI – XVII, Cũng giống như các cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỉ XIV, những người cầm đầu thường tự xưng vương, xưng tước nhằm mục đích thu phục dân chúng. Mặc dù có xưng tước hiệu, niên hiệu nhưng điều đó vẫn biểu hiện rõ mục tiêu là tiếp tục xây dựng chính quyền phong kiến. Điểm dễ thấy là chưa có lãnh tụ nào xưng vương.
    + Trần Cảo:
    Cảo thấy lời sấm nói rằng phương Đông có khí thiê tử, mới ngầm mưu đại nghịch, giả xưng là cháu chắt của Trần Thái Tôn, họ ngoại của Quang Thục hoàng hậu . Cảo mình mặc áo đen, quân đều trọc đầu, tự xưng là Đế Thích giáng sinh, tiếm xưng niên hiệu là Thiên Ứng.” (tr 550)
    + “Nguyễn Thì Thầm ngụy xưng là Lễ Quốc Công.” (tr 750)
    + “Nguyễn Minh Trí: khởi binh chiếm giữ huyện Minh Nghĩa, ngụy xưng là Đại Đức năm thứ 3”. (tr 737)
    ( Trích Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2004)
    4.Các phong trào nông dân trong thế kỉ XIV, XVI – XVII đều bị thất bại do sự đàn áp của triều đình, các phong trào nổ ra lẻ tẻ, tự phát và chưa có sự liên kết, còn mang tính chất cục bộ địa phương. Phong trào thiếu một tổ chức thống nhất lãnh đạo.


    * Khác nhau
    1. Nếu như nguyên nhân sâu sa dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân thể kỉ XIV là kinh tế, thì nguyên nhân sâu sa dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XVI – XVII là nguyên nhân chính trị.
    - Thế kỉ XIV, kinh tế diền trang thái ấp phát triển gắn liền với sự xuất hiện của sở hữu lớn của quý tộc Trần Trong điền trang, ruộng đất được chia thành phần nhỏ, lấy hộ gia đình làm đơn vị sản xuất. Thân phận của những người sản xuất trong điền trang là những nông dân lệ thuộc; nông nô và nô tì là chủ yếu. Sự phát triển của điền trang đã đẩy mạnh sở hữu ruộng đất lớn của quý tộc Trần, tạo chuyển biến mạnh mẽ cho hình thái kinh tế phong kiến.
    Sang thế kỉ XIV, điền trang tư nhân cũng như bộ phận ruộng đất của địa chủ phát triển rộng khắp bằng nhiều con đường: khai hoang, mua rẻ ruộng đất, lấn đất cướp ruộng đất của nông dân. Những năm đói kém, nông dân bỏ làng đi xiêu tán, thiếu đói chạy vào các điền trang làm nông nô cho các thế gia. Nhân lực lượng đó, các quý tộc Trần ngày càng ra sức khai hoang, cướp đất, mở rộng phần sở hữu của mình. Chế độ điền trang ngày càng phát triển mạnh với quy mô lớn và nông dân tự do bị nông nô hóa ngày càng nhiều. Bị dồn vào con đường cùng khốn, nông nô, nô tì và những nông dân nghèo khổ đã vùng lên khởi nghĩa.
    - Phong trào nông dân thế kỷ XVI- XVII diễn ra trong bối cảnh lịch sử rất phức tạp. Ở đó người ta thấy sự hưng thịnh, suy vong, gây ra những cuộc chiến tranh triền miên giữa các tập đoàn phong kiến để tranh giành quyền lực, gây bao đau thương cho nhân dân, cảnh chia lìa trong nước diễn ra.
    Nhà Lê sơ nếu như ở thế kỷ XV được coi là giai đoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam thì sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến bước vào khủng hoảng, suy thoái mất dần vị trí trong lịch sử. Năm 1504, vua Lê Hiến Tông vì ham mê nữ sắc nên chết sớm. Những người kế nghiệp như Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đều không có đức độ tài năng,ngày đêm ăn chơi xa xỉ không lo việc triều chính, tình hình đất nước ra sao.
    Lê Uy Mục sao nhãng việc triều chính, ăn chơi sa đoạ: “ Vua thích uống rượu, hay giết người, hiếu sắc, làm oai, giết hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận, người đời gọi là quỷ vương, điềm loạn hiện ra từ đấy”(760).
    Dưới đây là một loạt các biểu hiện về sự thối nát, tàn bạo của vua Uy Mục: “ Vua từ khi lên ngôi, đêm vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết”(766); “ Bạo Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Thoắt đã được 5 năm, tội ác đến muôn vẻ”. Uy Mục sai giết các công thần, tôn thất có ý không ủng hộ mình “ Bấy giờ vua giết hại người tôn thất, Giản Tu Công Oanh còn bị giam ở ngục”(768), “giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liêu” (768), “ phàm các quan người nào khi trước không muốn lập mình thì chú và anh em, cả thảy 26 thân vương, mà kinh vương là chú thì ẩn trốn không biết ở đâu, duy có Giản Tu công là con chú bác bị giam vào ngục trốn đi thoát được” (766); tính tình hung hãn đến nỗi người đời phải gọi y là “quỷ vương”(760); vua đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính, bề tôi ngựa trâu coi dân như rác, kiêu ngạo còn quá Nguỵ Canh. Huống chi lại làm cung thất to, vườn hoa rộng. Bắt dân trồng cây, theo bánh xe đổ gò Hoa Cương nhà Tống; lấp biển làm điện nối gót hòn mê cung A Phòng nhà Tần” (768,769).
    Dưới thời Uy Mục, bọn quý tộc ngoại thích dựa thế nhà vua, kết thành bè cánh nắm hết quyền hành, họ ngoại chuyên quyền, lộng quyền làm rối loạn triều chính: “ Bấy giờ quyền về họ ngoại, phía Đông thì làng Hoa Lăng (quê của mẹ nuôi), phái Tây thì làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía Bắc thì làng Phù Chẩn ( quê của mẹ đẻ vua) đều chuyên cậy quyền thế, dìm hãm thần liêu, có khi vì tư ý mà giết hại sinh dân, có khi dung ngón kín mà yêu sách tiền của, phàm súc vật, hoa màu của dân gian đều cướp cả, cùng nhà dân ai có đồ lạ vật quý thì đánh chữ vào để lấy”(766); “ bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi *** tung hoành làm bậy, kẻ cương trực bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi Bọn quý tộc ngạo lại ngược, ngược lại ngạo, quấy rối vùng phiên trấn tứ Tuyên” (768, 769); Bài hịch rằng: “ Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên quyền. Tử Mô là phường ngu hèn nơi phố chợ, rối loạn triều cương; Thắng Xung là hạng trẻ con chốn hương thôn, cán làm uy phúc”(769); “Kỷ năm Đoan Khánh hoạn quan dự chính, họ ngoại chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn”(771); vua “yêu dung họ mẹ là bọ Khương Xung và Nguyễn Bá Thắng, ngang tàng bạo ngược, đảo lộn triều cương Bọn Xung Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước”(772).
    Tóm lại dưới thời vua Uy Mục, tình hình đất nước rối loạn, chính trị khủng hoảng rối ren, vận nước không còn bao xa khiến Hứa Thiên Tích khi trông thấy tướng vua liền đề thơ rằng:
    An Nam tứ bách vận vưu trường,
    Thiên Ý như hà giáng quỷ vương
    ( Vận nước An Nam còn dài đến 400 năm, Ý trời thế nào lại giáng sinh vua quỷ) (763).
    Thấy đất nước loạn như vậy, người trong hoàng tộc đã hợp quân giết Uy Mục, lập vua mới là Tương Dực. Nhưng Lê Tương Dực lên ngôi cũng tỏ ra sa đoạ không kém khiến sứ thần Trung Quốc Hy Tăng trông thấy vua bảo Nhược Thuỷ rằng: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu” (785); “sai bọn nữ sử cởi truồng trèo ở hồ Tây, vua cùng chơi lấy làm vui thích lắm”(792).
    Tương Dực cũng rất hoang phí trong việc tập trung sức tiền của, sức lực để xây dựng những công trình cung điện khổng lồ, những đồ dùng để phục vụ cho việc ăn chơi xa xỉ, hoang phí của mình. Tiêu biểu là cho quân lính, nhân dân xây Cửu Trùng đài đã lấy đi bao tiền của, sức lực, sinh mạng của nhân dân: “ Người thợ Vũ Như Tô làm điện to hơn trăm nóc, hết kiệt tiền của và sức dân trong nước. Lại làm đài chin đợt, trước điện đào hồ thông với song Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền Thiên Quang để đi chơi, rất là xa xỉ. Dân gian đau khổ, quân lính nhọc mêt. Quân năm phủ đắp thành chưa thể thành công được đến đây có sắc gọi là nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấp hồ khiêng đất. Vua mỗi ngày bắt thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng bài vàng bạc. có chỗ đã làm xong lại đổi lại, đổi lại đắp lại, mấy năm không cùng. Quân lính đắp thành bị bệnh dịch đến 1/10” (792) làm cho nước nhà “hết kiệt tiền của”.
    Dưới thời Chiêu Tôn thần hoàng đế, tình hình loạn lạc cũng diễn ra: “ Bấy giờ trong buổi loạn lạc, quyền binh không ở trong tay mình, trong nghe lời siểm nịnh gian trá, ngoài say mê săn bắn chim muông, ngu tối không biết gì, ương ngạnh tự phụ, đến nỗi nguy vong đáng lắm” (798).
    Lợi dụng tình hình sa đoạ đó của chính quyền trung ương, bọn quan lại địa phương mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, đến nỗi ở phố xá, chợ búa, hễ thấy bóng quan thì dân vội đóng cửa, và tìm đường ẩn trốn, trong sách “ Đại Việt sử kí toàn thư” có đoạn tố cáo bọn quan lại: “ Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi. Đánh thuế tỉ mỉ, tiêu tiền như bùn” (768, 769).
    Sự ăn chơi sa đọa, nội bộ mâu thuẫn không chỉ thấy ở Vua Lê Uy Mục, Tương Dực mà ta còn thấy ở chúa Trịnh như Trịnh Cối: "Anh thần là Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm muộn ngày nào cũng sinh loạn, lại ngày đêm mưu cướp binh quyền và ấn của thần" (853); "Tuấn Đức hầu Trịnh Cối anh em không hòa với nhau mà làm loạn ở Thanh Hoa" (854).
    Vua Lê mất uy quyền, triều đình rối loạn. Các thế lực phong kiến ngày càng mạnh lên, nhân đó hợp quân tranh chấp lẫn nhau. Năm 1527 Mạc Đăng Dung bức vua Lê phải nhường ngôi, lập ra nhà Mạc( 1527- 1592). Cũng từ đây đất nước lâm vào tình trạng chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến: Nam – Bắc triều ( Bắc triều của họ Mạc và Nam triều của nhà Lê Trung Hưng do năm 1533, Nguyễn Kim dựa vào sự giúp đỡ của vua Ai Lao, mộ quân luyện tập và tôn một người con của Chiêu Tông tên là Ninh lên làm vua. Nhiều cựu thần nhà lê được tin đó theo vào Thanh Hoá trung hưng lại triều đình Lê, sử gọi là Nam triều); chiến tranh Đàng Trong – Đàng Ngoài giữa chính quyền Trịnh – Nguyễn (1627- 1672) làm cho đất nước thêm rối loạn, chia cắt phân li, đời sống nhân dân khổ cực, chia lìa.
    Chiến tranh Nam – Bắc triều diễn ra quyết liệt, triền miên: năm 1559, “tháng 10, thái sư Trịnh Kiểm đem binh và voi đi đánh dẹp các xứ Kinh Bắc, đóng dinh ở phủ Thuận An, cầm cự nhau với quân Mạc Tháng 11, thái sư Trịnh Kiểm chia quân đi đánh các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, các huyện Siêu Loại, Văn Giang, quân đi đến đâu quân giặc đều chạy tan.
    Tháng 12, thái sư Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, Nam Sách, quân Mạc nghe tin đều bỏ chạy” (846).
    Quân Mạc cũng cho quân nhiều lần đánh vào Thanh Hoa: “ Ngày 16, họ Mạc sai Kính Điển đốc các thân vương của Mạc và tướng tá đem hơn 10 vạn quân, 700 chiến thuyền đánh cướp Thanh Hoa. Khi đến cõi thì chia quân sai Đôn Nhượng cùng với tướng Bắc đạo là Giao quốc đem quân giữ cửa biển Thần Phú. Sau khi đã tiến vào chia sai tướng bản đạo là Hoằng quận công làm đội thứ nhất đi tiên phong, tướng Nam đạo là Thạch quận công Nguyễn Quyện làm đội thứ hai, tướng Tây đạo là Ngạn quận công Mạc Ngọc Viễn làm đội thứ ba, tướng đông đạo là Hoa quận công và Kỳ quận công làm đội thứ tư, Kính Điển tự đốc đại quân trung dinh làm đội thứ năm, các thân vương, tôn thất Mạc thì thống đốc binh vệ triều đông và các nội vệ làm đội thứ sáu, ngay hôm ấy đều tiến vào các cửa biển Linh Trướng, Chi Long, Hội Triều họp nhau ở Bát Cương. Đến Hà Trung thì đóng dinh ở sông , hai bên bờ khói lửa liên tiếp đến 10 dặm”(854).
    Hậu quả của cuộc chiến tranh Nam- Bắc triều là vô cùng lớn: "Sông Mã từ Úng quan trở xuống, sông Lam từ Bổng Luật trở xuống, khói lửa mù trời, cờ cắm rợp đất. Nhân dân ở chốn Thanh Hoa dắt già cõng trẻ, nhốn nháo ngoài đường không biết nương nhờ vào đâu, tiếng kêu vang trời, bao nhiêu tiền của súc vật, phụ nữ đều bị quân Mạc lấy cả" (855).
    Tình trạng Nam - Bắc triều chưa chấm dứt được bao lâu thì chiến tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài giữa chính quyền Trịnh - Nguyễn lại diễn ra dai dẳng, triền miên (1627 - 1672) gây nhiều tổn thất cho đất nước, nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực.
    Sự khủng hoảng về chính trị chính là nguyên nhân sâu sa dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở thế kỉ XVI – XVII.
    ( Trích "Đại Việt sử kí toàn thư"(trọn bộ) Nxb Văn học, Hà Nội, 2009.)
    2. Không gian của các phong trào khởi nghĩa của nông dân: quy mô các phong trào khởi nghĩa nông dân thế kỉ XVI – XVII rộng lớn hơn so với thế kỉ XIV.
    - Các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỷ XIV nổ ra ở các địa phương Bắc Bộ. Trong từng cuộc khởi nghĩa, phạm vi không gian của nó chỉ bó hẹp trong từng địa phương, trong từng làng xã, ít có sự liên kết với nhau
    “Tân Mão, năm thứ 11 (1351) Châu Thái Nguyên và lộ Lạng Giang giặc cướp nổi dậy” (Trang 281)
    “Giáp Ngọc, năm thứ 14 (1354) Ở Lạng Châu và Nam Sách giặc cướp nổi dậy (Lạng Châu bây giờ là tỉnh Lạng Sơn) (Trang 283)
    “Kỷ mùi, năm thứ 3 (1379) Tháng 8 mùa thu, Nguyễn Bổ ở Bắc Giang nổi loạn” (Trang 301)
    “Kỷ Tị (1389), tháng 8 mùa thu, giặc cướp ở Thanh Hóa nổi lên”
    Như thế có thể thấy quy mô của các phong trào rất hẹp, bó gọn trong từng địa phương như Lạng Giang, Nam Sách, Thanh Hóa, Bắc Giang .
    (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001 để tiện phục vụ hơn cho bạn đọc.)
    - Các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XVI – XVII, nhất là thế kỉ XVI nổ ra và lan tỏa ở nhiều địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tiêu biểu như: Khởi nghĩa Thân Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng (1511) tại Sơn Tây, Hưng Hóa; khởi nghĩa Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triết (1512) tại Nghệ An, Thanh Hóa; Đặng Hân, Đặng Ngật (1515) tại Thanh Hóa; khởi nghĩa Trần Công Ninh (2/ 1516) tại Vĩnh Phúc, khởi nghĩa Trần Cảo (1516) từ Đông Triều (Quảng Ninh) lan tới Tiên Du, Quế Dương (Bắc Ninh), Gia Lâm (Hà Nội), Sơn Nam (Kinh Bắc), .
    Nhìn chung, khởi nghĩa nông dân nổ ra trên một địa bàn khá rộng từ Sơn Tây, Hưng Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên, Sơn Nam, Vĩnh Yên . Thậm chí có những địa phương là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc khởi nghĩa như: Sơn Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Bắc Ninh .
    Đặc biệt, trong từng cuộc khởi nghĩa, phạm vi, không gian của nó không còn bó hẹp trong một vùng và lan rộng ra nhiều địa phương. Điển hình như cuộc khởi nghĩa của Lê Hy, Trịnh Hưng nổ ra trên các địa bàn như Thanh Hóa, Hưng Hóa, Sơn Tây, . Khởi nghĩa của Trần Cảo, hay các cuộc khởi nghĩa của dân nghèo trong nhiều năm cũng diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước “năm 1593, ngày 21, đảng ngụy ở các nơi đều dấy binh tiến ra sông Nhị, đến Bồ Đề, đốt phá cầu phao ở Bát Tràng. Thế là nhân dân các huyện ở Hải Dương, Kinh Bắc đều dựng cở hưởng ứng theo” (tr 559).
    Theo như thống kê của người viết đây chính là lần đầu tiên các tác giả “Đại Việt sử kí toàn thư” đã dùng từ “hưởng ứng”. Điều này chứng tỏ rằng trong thế kỉ XVI – XVII, khởi nghĩa nông dân ít nhiều đã có bước tiến so với thế kỉ XIV. Dẫn chứng thuyết phục hơn là khởi nghĩa của Nguyễn Thì Thầm: “Giám sinh người Chi-nê huyện Chương Đức là Nguyễn Thì Thầm ngụy xưng là Thượng thư lễ quận công, người làng Mạn Nhuế huyện Thanh Lâm ngụy xưng là Thiếu bảo An quốc công, người huyện Phú Lộc ngụy xưng là Trung quận công họp quân ở địa phương huyện Yên Lãng ” (tr 750).
    ( Trích : Đại Việt sử kí toàn thư, Tập II, NXB Văn hóa thông tin, năm 2004)
    Đề cập đến không gian của các cuộc khởi nghĩa nông dân trong thế kỉ XVI – XVII, cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng viết:
    - Các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XVI, XVII, nhất là thế kỉ XVI nổ ra và lan tỏa ở nhiều địa phương ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Chẳng hạn như: Sơn Tây, Hưng Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên Ví dụ:
    +Tân Mùi, năm thứ ba (1512), có:
    “Ngày mồng một, tháng giêng, mùa xuân. Nhật thực. Tháng hai, nhà vua đi tuần du Tây Kinh. Nhà vua hạ lệnh cho Thụy quận công Ngô Bính và Kim nguyên bá Trịnh Bá Quát ở lại kinh thành, trấn giữ Đông Kinh. Lúc ấy có Thân Duy Nhạc, trước giữ chức đoán sự trong Vệ Cẩm Y, cùng bọn Ngô Văn Tổng dấy quân làm loạn ở các huyện Yên Phú, Đông Ngàn và Gia Lâm thuộc Kinh Bắc, bọn Ngô Bính và Trịnh Bá Quát sai quân đi đánh, bắt được bọn Duy Nhạc, đóng cũi giải đến chỗ hành tại, giết chết” (tr. 50).
    “Tháng 11, mùa đông. Trần Tuân ở Sơn Tây nổi loạn, nhà vua sai Trịnh Duy Sản đi đánh, giết được Trần Tuân” (tr. 53).
    + “Tháng 4/1522, bọn Lê Văn Cương và Lê Bá Hiếu ở Kinh Bắc nổi loạn, nhà vua sai tướng đi đánh, bắt được, giết chết Khắc Cương và Bá Hiếu. Khắc Cương và Bá Hiếu dấy quân ở Đông Ngàn, nay thuộc Tiên Sơn ( Bắc Ninh) và Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm (Hà Nội)”.(tr. 85)
    + “Tháng 1/1594, Kinh Bắc, Thái Nguyên và Lạng Sơn đều có giặc cướp nổi dậy. Bấy giờ đảng ngụy ở các xứ đều nổi lên. Chúng cướp bóc khuấy nhiễu ở sở tại.”(tr 204)
    - Thậm chí, có những địa phương là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc khởi nghĩa: Sơn Tây, Thanh Hóa, Hải Dương Ví dụ:
    + Ở Sơn Tây:
    “Năm 1512, tháng 11, mùa đông, Trần Tuân ở Sơn Tây nổi loạn, nhà vua sai Trịnh Duy Sản đi đánh, giết được Trần Tuân”.(tr. 53)
    “Năm 1515, tháng giêng, mùa xuân. Phùng Chương ở Sơn Tây nổi loạn. Nhà vua sai tướng đi đánh, dẹp yên được.”(tr .63)
    - Đặc biệt, trong từng cuộc khởi nghĩa, phạm vi không gian của nó không còn bó hẹp trong một vùng, mà lan rộng ra nhiều địa phương. Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa của Lê Hy, Trịnh Hưng, hay điển hình là cuộc khởi nghĩa của Trần Cao. Ví dụ:
    + “Năm 1516: Tháng 3, có thủy tai lớn. Trần Cao, người Thủy Đường nổi loạn Hắn cùng với con là Cung và đồ đảng là bọn Phan Ất dấy quân ở chùa Quỳnh Lâm, chiếm cứ các huyện Thủy Đường và Đông Triều thuộc Hải Dương Quân sĩ của Cao kéo từ các huyện Tiên Du, Quế Hương và Gia Lâm, xâm phạm đến bến Bồ Đề ”(tr .65)
    + “ Trần Cao mở cửa thành chạy, qua sông Thiên Đức, lẩn lút ở Lạng Nguyên.”(tr .70)
    ( trích: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998)
    3. Nếu như các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XIV chủ yếu diễn ra vào cuối triều đại nhà Trần và thời gian tồn tại ngắn thì các cuộc khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XVI – XVII diễn ra rải rác ngay từ đầu thế kỉ cho đến cuối thế kỉ nhưng không liên tục ở hai thế kỉ. Thế kỉ XVI chủ yếu diễn ra tập trung ở đầu thế kỉ và cuối thế kỉ thì thế kỉ XVII nổ ra ít hơn và diễn ra vào những năm đầu của thế kỉ XVII. Các cuộc khởi nghĩa ở thế kỉ XVI – XVII có thời gian hoạt động dài hơn phong trào ở nửa cuối thế kỉ XIV.
    - Ở thế kỉ XIV, bắt đầu từ năm 1343, đặc biệt những năm cuối nhà Trần, phong trào nông dân nổ ra liên tiếp, dồn dập hơn. Ở nhà Trần, phong trào nông dân nổ ra vào các năm: 1343, 1351, 1354, 1358, 1379, 1389, 1399
    Thời gian diền ra của các phong trào này rất ngắn. Các cuộc khởi nghĩa này thường chỉ tồn tại trong 1 năm. Nhanh chóng bị dẹp yên. Điều này có thể thấy trong sự kiện sau “Tân Mão, năm thứ 11 (1351), châu Thái Nguyên và lộ Lạng Giang giặc cướp nổi dậy. Dẹp yên ngay”
    Chỉ duy nhất có cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ là kéo dài nhất. Phong trào nổ ra từ năm 1344 “nhà vua sai quân đi bắt. Bọn Ngô Bệ liền trốn tránh tan rã” (Trang 277). Nhưng 14 năm sau, phong trào này lại được phục hồi : “Mậu Tuất, năm Đại Trị thứ 1 (1358) Ngô Bệ lại tụ họp quân gia làm phản. Ngô Bệ, sau khi tan tác trốn tránh, lại thu lượm những quân còn sót lại, tụ tập ở núi Yên Phụ” (Trang 286). Phong trào tiếp tục kéo dài thêm 2 năm nữ, đến năm 1360 Ngô Bệ bị giết, phong trào mới kết thúc.
    (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001 để tiện phục vụ hơn cho bạn đọc.)
    - Ở thế kỉ XVI – XVII, Phong trào diễn ra rải rác trong suốt cả hai thế kỉ. Tuy nhiên điều dễ nhận thấy đó là tính gián cách, đứt đoạn và không liên tục. Có thể thấy, vào thế kỉ XVI, phong trào nông dân nổ ra tập trung ở đầu và cuối thế kỉ (đầu thế kỉ: 1512, 1515, 1516, 1519, 1520), cuối thế kỉ: 1571; 1594; 1596; 1599). Thế kỉ XVII, khởi nghĩa nông dân nổ ra ít hơn, mang tính quy tụ hơn và chủ yếu diễn ra vào cuối thế kỉ. Người viết chỉ tìm được hai dẫn chứng về khởi nghĩa nông dân trong thế kỉ này vào các năm 1667, 1670.
    Căn cứ vào một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu có thể thấy phạm vi hoạt động và thời gian hoạt động của nghĩa quân lớn hơn, dài lâu hơn phong trào nửa cuối thế kỉ XIV. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa:
    Lê Hy (5/1512 – cuối 1512)
    Trần Cảo (đầu 1516 - 1521 )
    Trong tác phẩm Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng nói đến thời gian của cuộc khởi nghĩa nông dân trong thế kỉ XVI – XVII
    Các phong trào diễn ra rải rác ngay từ đầu thế kỉ cho đến cuối thế kỉ nhưng không liên tục ở cả thế kỉ. Thế kỉ XVI chủ yếu diễn ra tập trung ở đầu thế kỉ và cuối thế kỉ. Ví dụ:
    “Tân Mùi, năm thứ ba (1512) (Minh, năm Chính Đức thứ sáu). Ngày mồng một, tháng giêng, mùa xuân. Nhật thực. Tháng hai, nhà vua đi tuần du Tây Kinh Lúc ấy, có Thân Duy Nhạc, trước giữ chức đoán sự trong Vệ Cẩm Y, cùng bọn Ngô Văn Tổng dấy quân làm loạn ở các huyện Yên Phú, Đông Ngàn và Gia Lâm thuộc Kinh Bắc ”(tr. 50)
    “ Nhâm Thân, năm thứ tư (1512) (Minh, năm Chính Đức thứ bảy). Bọn Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt ở Nghệ An nổi loạn. Nhà vua sai tướng đi đánh, giết được bọn này”.(tr. 56)
    “Ất Hợi, năm thứ bảy (1515) (Minh, năm Chính Đức thứ mười). Tháng giêng, mùa xuân, Phùng Chương ở Sơn Tây nổi loạn. Nhà vua sai tướng đi đánh, dẹp yên được”.(tr. 63)
    “Tháng 1/1594, Kinh Bắc, Thái Nguyên và Lạng Sơn đều có giặc cướp nổi dậy.” (tr. 204)
    “Tháng 11/1596, Phạm Hoàng ở Sơn Nam nổi loạn. Nhà vua sai bọn Bùi Văn Khuê đi đánh, giết được Phạm Hoàng.”(tr. 214)
    + Thế kỉ XVII nổ ra ít hơn và diễn ra vào những thập kỉ cuối của thế kỉ XVII.
    “Tháng 7/1695, Lê (Thì) Liêu ở trấn Sơn Tây dẹp yên được trộm cướp, dập bớt được kiện tụng.”(tr. 312)
    “Tháng 4/1665, thổ tù Lạng Sơn là Bế Công Lương và Bế Công Tế trái mệnh lệnh triều đình đã từ lâu. Đình Kế đến trấn thủ Lạng Sơn dụ dỗ được bọn Công Lương cam kết quy thuận, được triều đình ngợi khen”.(tr. 312)
    “Tháng 6/1670, con trai Ma Phúc Trường, thổ tù Tuyên Quang, là Phúc Lan và em Phúc Trường là Phúc Điện tụ họp nhiều người đi cướp bóc, dân địa phương bị rối loạn.”(tr .326)
    + Ở một số cuộc khởi nghĩa điển hình, phạm vi hoạt động và thời gian hoạt động của nghĩa quân lớn hơn, dài lâu hơn phong trào ở nửa cuối thế kỉ XIV. Có những cuộc khởi nghĩa kéo dài hàng tháng (khởi nghĩa của Lê Hy, Trịnh Hưng), thậm chí nhiều năm (Trần Cao). Ví dụ như cuộc khởi nghĩa của Trần Cao kéo dài 5 năm (1516 – 1521):
    “Bính Tí, năm thứ tám (1516). Tháng ba, có thủy tai lớn. Trần Cao, người Thủy Đường nổi loạn.”(tr .64)
    “Tháng bảy, 1521, Cao lén lút chiếm cứ các huyện thuộc Lạng Nguyên và Kinh Bắc, qua 5 năm truyền cho con là Cung. Cung tiếm hiệu là Tuyên Hòa. Còn Cao thì bị cắt tóc làm sư, lẩn trốn đâu, không ai biết”.(tr. 84)
    ( trích: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998)
    4. Lực lượng nghĩa quân của các phong trào khởi nghĩa nông dân ở thế kỉ XVI – XVII hùng mạnh hơn so với thế kỉ XIV: đông về số lượng, thậm chí nhiều lúc còn đánh bại cả quân triều đình.
    -Một điểm dễ thấy đó là lực lượng tham gia khởi nghĩa khá đông đảo và khá hùng mạnh. Các sử gia Đại Việt sử kí toàn thư đã chứng minh điều này bằng cách trực tiếp đưa ra những con số và gián tiếp qua việc nhắc tới số lượng binh lính triều đình phải tham gia.
    · Thứ nhất, Đại Việt sử kí toàn thư đưa ra con số trực tiếp để minh họa cho sự tham gia đông đảo của quần chúng:
    Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm cắp đều quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến 7,8 trăm đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm” (tr 592)
    · Thứ hai, số lượng đông được biểu hiện gián tiếp. Có cuộc khởi nghĩa đông tới mức buộc triều đình phải huy động lực lượng lớn tham gia mới đàn áp được. Điều này được minh họa bằng một số dẫn chứng như sau:
    + Trong khởi nghĩa Trần Tuân:
    Vua sai Hữu thị lang Hộ bộ Lê Đĩnh Chi cùng với các quan khoa đài đi khám phố xá hàng chợ Vua sai Mỹ Huệ Hầu Trịnh Duy Sản đem quân đi đánh Trần Tuân Thế của Tuân rất mạnh muốn tiến sát kinh thành. Nghĩa Quốc công Nguyễn Văn Lang sai quân sáu vệ Điện tiền, kéo thuyền Tiểu thiên quang xuống sông, muốn đón vua về Thanh Hoa để giữ hiểm, và gọi hết các thợ của các sở Công bộ và các thợ thường ban, bày làm kì binh ở xứ Đông Hà để giữ Vua sai Minh luân Bá Lê Niệm, Tổng thái giám Lê Văn Huy và hai người hoa Văn học sinh đem các lực sĩ hai ty Hải Thanh và Hà Thanh chèo hai thuyền nhẹ đi về địa phương Từ Liêm để dò xem tình hình giặc ” (tr 533)
    + Trong cuộc khởi nghĩa Đặng Hân, Đặng Ngật:
    “Bọn Đặng Hân, Đặng Ngật nổi loạn ở địa phương huyện Ngọc Sơn, trấn Thanh Hoa. Ngày 27, vua sai tướng lãnh binh, lấy Đỗ Nhạc làm Tán lý quân vụ đi đánh dẹp giặc” (tr 548)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Trần Công Ninh:
    Bính Tý năm thứ 8 (1516) . mùa xuân, tháng giêng, bấy giờ là kì đại tập các quân, Trần Công Ninh nổi loạn ở xứ Đò Hối, huyện Yên Lãng. Ngày 23. Vua sai Đông các đại học sĩ Đỗ Nhạc ở lại trấn giữ kinh thành, vua thân đem các đại thần văn võ và đô đốc năm phủ đi theo. Quân từ các cửa Bắc Thần, vua ngự ở hành tại bên sông Nhị, hiệu lệnh cho các tướng sang sông tiến đánh .” (tr 548)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo: Đây là cuộc khởi nghĩa có tầm ảnh hưởng và sức mạnh khá lớn đến nỗi:
    Vua thân đi đánh, ngự ở điện Tường Thọ (tức là điện Quỳnh Vân), hiệu lệnh các tướng. Bọn Đông Nham bá Lại Thúc Mậu, Quảng phúc bá Nguyễn Khắc Nhượng, Minh Vũ Bá Trịnh Hồng đem quan quân sang sông đánh hăng đến các địa phương Bồ Đề, Lâm Hạ” ( tr 550)
    + Trong cuộc khởi nghĩa Vũ Nghiêm Uy:
    “Vua sai Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ đem quân đi đánh, lấy Phạm Khiêm Bính làm Tán lí quân vụ.” (tr 580)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Giang Văn Dụ:
    Tháng 11, ngày 12, Định Sơn hầu Giang Văn Dụ khởi binh ở các huyện Thanh Oai, Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, nhân dân các huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên đều ứng theo. Liên Hồ bá Lê Văn Phúc cáo cấp với Mạc Đăng Dung. Đăng Dung còn bận đi dẹp ở Kinh Bắc, sai tỳ tướng đi đánh.” (tr 592)
    · Thứ ba, thậm chí quân triều đình bị đánh bại:
    + Trong khởi nghĩa Trần Tuân:
    “Bấy giờ Duy Sản bị địch đánh thua, thủ hạ chỉ độ hơn 30 người, xé áo làm hiệu, thề cùng nhau đánh giặc” (tr 534)
    + Trong khởi nghĩa của Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triệt:
    “Bọn Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triệt làm loạn ở địa phương Nghệ An. Vua sai bọn Khang Quận công Trần Nghi và Đông các hiệu thư Trần Dực đi đánh. Vào đến địa phương Nghệ An, bọn Nghi đằng trước đằng sau đều bị giặc đánh, quan quân vượt ra biển bị sóng gió đánh vỡ thuyền, toàn quân bị chết đuối. Nghi và Dực cũng chết chìm ở biển.” (tr 536)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo:
    Ngày mồng ba, vua sai Định quận công Phùng Trấn, Diên Hưng bá Trịnh Khổng Chiêu, Phú Lộc bá Trịnh Ngạc đem quan quân đi đánh mấy lần không được. Trấn và Chiêu đều bị thua trận chết. Trịnh Ngạc bị bắt.” (tr 551)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Lê Khắc Cương và Lê Bá Hiếu:
    “Mạc Đặng Dung thân đem các tướng đi đánh không được. Phó đề lĩnh tứ thành quân vụ là Trâu Sơn bá Lê Thọ chết trận.” (tr 585)
    · Thứ tư, có những cuộc khởi nghĩa, vua phải huy động cả dân chúng. Ví dụ như cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo:
    Mùa hạ tháng 6, ngày 28, Thái phó Hùng Quốc Công Lê Nghĩa Chiêu bàn định lệnh thưởng công bắt cha con Trần Cảo. Nếu bắt được Cảo thì thưởng 50 người, người đứng đầu được thưởng chức Hữu đô đốc tòng nhất phẩm, ấm phong ba đời, không muốn làm quan thì cho 300 lạng vàng, cấp 2000 mẫu ruộng, người đứng thứ hai được chức Đô chỉ huy sứ, chánh tam phẩm, ấm phong ba đời, người thứ ba được chức Đô chỉ huy sứ đổng tri, tòng ngũ phẩm. Bọn cùng bắt thì mười người được chức Chỉ huy thiêm sự, Chánh tứ phẩm, rồi 13 người cùng bắt được chức Chỉ huy đồng tri. Nếu bắt được con nghịch Cảo thì thưởng 20 người, một người đứng đầu cho chức Đô đốc đồng tri” (tr 557)
    Ngày 13, Lê Nghĩa Chiêu lại bàn định lệnh thưởng công bắt tướng giặc:
    - Bắt được đại tướng của giặc, khó bắt thì thưởng 10 người, dễ bắt thì thưởng 5 người, người đứng đầu bắt, khó bắt thì cho chức đô chỉ huy tòng tam phẩm, dễ bắt thì cho chức đô chỉ huy thiêm sự chánh tứ phẩm
    - Bắt được phó tướng của giặc, khó bắt thì thưởng 8 người, dễ bắt thì thưởng 4 người.
    - Lại định thưởng công các công thần bắt được giặc Cảo và người làm quan với giặc. Lại định lệnh thưởng công các lực sĩ, dũng sĩ, võ sĩ và tuấn sĩ con cháu các công thần bắt được tướng giặc.” ( tr558)
    ( Trích : Đại Việt sử kí toàn thư, Tập II, NXB Văn hóa thông tin, năm 2004)
    5. So với cuối thế kỉ XIV, lực lượng tham gia các cuộc khởi nghĩa ở thế kỉ XVI – XVII đã có sự mở rộng hơn. Đó là nông dân làng xã chủ yếu là dân nghèo, một bộ phận lực lượng vũ trang là dân binh. Đóng vai trò quan trọng nhất, là động lực của khởi nghĩa nông dân là nông dân công xã (không còn là nông nô, nô tỳ như thế kỉ XIV nữa). Như vậy lực lượng tham gia không những mở rộng hơn mà cònbổ sung thêm những thành phần mới. Bên cạnh tầng lớp nông dân còn có các tầng lớp bị trị khác.
    - Ở thế kỉ XIV, Lực lượng tham gia khá đông đảo. Bao gồm nông dân, dân nghèo, binh lính, thợ thủ công, nông nô, nô tì .
    Tất cả các cuộc khởi nghĩa đều có sự tham gia ủng hộ đông đảo của nông dân “Nguyễn Nhữ Cái ở Đà Giang liền chiêu dụ dân lành, được hơn 1 vạn người” (Trang 323)
    Ngoài ra còn có cả sự tham gia của binh lính “Lúc đấy (chỉ năm 1389) có Nguyễn Kỵ, người Nông Cống tụ họp binh lính đi cướp bóc” (Trang 308)
    Lực lượng đóng vai trò quan trọng là nông nô, nô tì. Đây là một điểm rất khác biệt của phong trào nông dân cuối thế kỷ XIV, so với các phong trào ở các thời kỳ khác:
    Điều này xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của Đại Việt dưới thờ Trần. Cùng với việc phát triển của kinh tế điền trang, thái ấp, số lượng nông nô, nô tì cũng gia tăng. Đời sống của người nông nô, nô tù vô cùng cực khổ. Do đó họ đã liên tục tham gia đấu tranh.
    “ Năm 1354 Có kẻ tên là Tề, tự xưng là cháu ngoại Hưng đạo đại vương, tụ họp những kẻ đi trốn trong số các gia nô của các vương hầu, nổi lên làm giặc cướp”
    Số nông nô, nô tì tham gia đông đến mức năm 1360 “nhà vua hạ chiếu phàm các gia nô các nhà vương, hầu và công chúa đều phải có thích chữ ở trán theo “phẩm hàm” củ mình và phải kê khai vào sổ hộ tịch. Nếu ai không thích chữ và khai sổ thì là hạng trộm cướp .Đó là vì gia nô các nhà vương, hầu và công chúa bấy giờ phần nhiều trốn đi làm giặc cướp” (Trang 287)
    (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001 để tiện phục vụ hơn cho bạn đọc.)
    - Căn cứ vào các dẫn chứng trong Đại Việt sử kí toàn thư, so với cuối thế kỉ XIV lực lượng tham gia các nghĩa quân nông dân ở thế kỉ XVI – XVII có sự mở rộng hơn. Đó là nông dân, chủ yếu là dân nghèo, một bộ phận lực lượng vũ trang là dân binh. Đóng vai trò quan trọng nhất, là động lực của khởi nghĩa nông dân là nông dân công xã, lực lượng tham gia không những mở rộng hơn mà còn bổ sung thêm những thành phần mới. Bên cạnh tầng lớp nông dân còn có các tầng lớp bị trị khác. Thậm chí, trong cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo còn có sự tham gia của người Chiêm Thành. Điều này được minh họa trong Đại Việt sử kí toàn thư như sau:
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo: “ . bè đảng là bọn Phan Ất (tức người Chiêm Thành tên là Đồng Lợi, nguyên là gia nô của Trịnh Duy Đại, Đình Ngạn, Đình Nghệ, Công Uẩn, Đình Bảo, Đoàn Bố)” (tr 560)
    + Trong cuộc khởi nghĩa của Giang Văn Dụ: “Nhâm Ngọ (1522), tháng 11, ngày 12, Định Sơn Hầu Giang Văn Dụ khởi binh ở các huyện Thanh Oai, Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức. Nhân dân các huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Nguyên đều hưởng ứng” (tr 591)
    Chính sự mở rộng lực lượng tham gia và sự tham gia của một số lực lượng mới đã làm tăng thêm sức mạnh của các cuộc khởi nghĩa nông dân, khiến cho các cuộc khởi nghĩa đó hoạt động trên phạm vi rộng lớn về mặt không gian và kéo dài về thời gian.
    ( Trích : Đại Việt sử kí toàn thư, Tập II, NXB Văn hóa thông tin, năm 2004)
    6. Nếu như ở thế kỉ XIV chưa có tài liệu nào nói cụ thể về thành phần lãnh đạo phong trào nông dân thì ở thế kỉ XVI – XVII thành phần lãnh đạo trong hai thể kỉ này đã được xác định rõ ràng, dựa trên những cơ sở khoa học xác đáng đó là: quan lại, trí thức, quý tộc
    - Ở thế kỉ XIV, Chưa có tài liệu rõ ràng để khẳng định thành phần lãnh đạo là nông dân. Chỉ thấy ghi chép tên mà không ghi chép xuất thân: “bọn Ngô Bệ”, “có kẻ tên là Tề”. “Nguyễn Bổ ở Bắc Giang nổi loạn”. “Nguyễn Thanh người Thanh Hóa”. Chỉ duy nhất Phạm Sư Ôn là có ghi cụ thể hơn “Người thầy chùa có yêu thuật là Phạm Sư Ôn nổi lên làm loạn”
    - Ở thế kỉ XVI – XVII, Thành phần tham gia lãnh đạo gồm nhiều đối tượng: quan lại, trí thức, quý tộc:
    Mùa đông, tháng 11, ngày 11, người làng Quang Bị huyện Bất Bạt là Trần Tuân làm loạn ở địa phương Sơn Tây (Tuân là cháu của thượng thư Lại bộ Trần Cận” (tr 532)
    Ngày mồng 6, người trang Dưỡng Chân huyện Thủy Đường làm Thuần Mỹ điện giám là Trần Cảo làm loạn”(tr 550)
    Bảo xuyên hầu Lê Khắc Cương và Lương Phú Hầu Lê Bá Hiếu làm loạn, nổi quân ở miền Đông Ngàn, Gia Lâm” (tr584)
    Tháng 11, ngày 12, Định Sơn hầu Giang Văn Dụ khởi binh ở các huyện Thanh Oai, Sơn Minh, Hoài An, Chương Đức, nhân dân các huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên đều ứng theo. (tr 592 )
    Giám sinh người xã Chi-nê huyện Chương Đức tự xưng hiệu là Binh bộ thượng thư Lâm Tuyền hầu” (tr 743)
    Giám sinh người Chi-nê huyện Chương Đức là Nguyễn Thì Thầm ngụy xưng là Thượng thư lễ quận công, người làng Mạn Nhuế huyện Thanh Lâm ngụy xưng là Thiếu bảo An quốc công, người huyện Phú Lộc ngụy xưng là Trung quận công họp quân ở địa phương huyện Yên Lãng” (tr 750)
    Như vậy, thành phần lãnh đạo khởi nghĩa nông dân trong hai thế kỉ XVI – XVII đã được xác định tương đối rõ ràng. Lãnh đạo vẫn là các tầng lớp trên: nho sĩ, trí thức, quan lại, . Họ là những người có chí khí, có tâm huyết, đứng về phía nông dân, trở thành thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Như vậy về thành phần lãnh đạo, tuy đã được mở rộng nhưng vẫn không có bóng dáng lãnh tụ nào là nông dân đứng lên chiêu mộ nhân dân khởi nghĩa.
    ( Trích : Đại Việt sử kí toàn thư, Tập II, NXB Văn hóa thông tin, năm 2004)























    C.KẾT LUẬN​ Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân có vai trò quan trọng. Cuộc đấu tranh đó biểu hiện ở tất cả các khía cạnh: từ bảo vệ đất nước chống ngoại xâm đến xây dựng nền kinh tế, tạo ra những của cải vật chất cho xã hội và đặc biệt là chống áp bức, bóc lột, chống lại mọi lực lượng phản động kìm hãm sự phát triển của xã hội, của lực lượng sản xuất. Trong xã hội phong kiến, đối với các quốc gia phong kiến phương Đông thì nông dân chính là lực lượng sản xuất chủ yếu nuôi sống nhà nước và xã hội, là lực lượng có ý nghĩa quyết định trong sự thành bại của các vương triều phong kiến. Cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến thống trị có ý nghĩa thúc đẩy xã hội tiến lên.
    Thế kỉ XIV, lịch sử đã chứng kiến hàng loạt các phong trào đấu tranh của nông dân, sang đến thế kỉ XVI – XVII các phong trào diễn ra sôi nổi mạnh mẽ với quy mô và địa bàn rộng lớn. Song do chính quyền phong kiến còn đủ mạnh nên đã đàn áp các phong trào đấu tranh của nông dân, làm cho các phong trào lần lượt bị thất bại. Dù thất bại, nhưng nó đã thể hiện được ý chí và tinh thần quật khởi của người nông dân trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ.













    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO​ * Tài liệu gốc:
    1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, “Đại Việt sử ký toàn thư (2 tập)”, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004.
    2. Quốc sử quán triều Nguyễn, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998.
    - “ Khâm định Việt sử thông giám cương mục” - Tác phẩm đã được chuyển sang bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thúy, Tuyết Mai, Thanh Quyên vào năm 2001, tài liệu trên mạng internet)
    * Tài liệu tham khảo
    1. Minh Tranh: “Một số ý kiến về nông dân Việt Nam”, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1961.
    2. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập 1)”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1963.
    3. Phan Huy Lê, “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập 2): thời kỳ phát triển cực thịnh”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1959.
    4. Phan Huy Lê, “ Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập 3): thời kỳ khủng hoảng và suy vong”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1960.
    5. Văn Tân, “ Những cuộc khởi nghĩa nông dân trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 74, năm 1965
    6. Trương Hữu Quýnh, “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005.
    7.Trương Hữu Quýnh, “Lịch sử Việt Nam : Từ thế kỉ X đến năm 1858”, Giáo trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở hệ cao đẳng sư phạm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2001.
    8. Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên, “Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam”, Nhà xuất bản ĐHSP, Hà Nội, 2008.
    9. Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh Lịch sử Việt Nam: Q.2: 1427-1858, . - In lần thứ 3 có sửa chữa. NXB Giáo dục, 1980
    10. Phan Huy Lê, Lịch sử Việt Nam (1406-1858) : Giáo trình dùng cho học sinh năm thứ nhất ngành sử . NXB Trường đại học tổng hợp Hà Nội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...